Việt Nam có tiềm năng đứng đầu thế giới về cây mắc ca
(Dân trí) - Việt Nam có tiềm năng trở thành một cường quốc về cây macadamia (còn gọi là mắc ca) với hàng trăm ngàn ha mà không cần mở rộng thêm diện tích trồng trọt. Tuy nhiên, cần có chiến lược phát triển toàn diện cho cây này để tránh bẫy xuất khẩu nguyên liệu thô giá rẻ.
Nhân của quả mắc ca có hàm lượng dầu tới 78%, cao hơn hẳn nhân điều (47%), lạc (44,8%), mắc ca được mệnh danh là “nữ hoàng” các loại hạt khô trên thế giới. Trong dầu của mắc ca có trên 87% axit béo không no, trong đó có nhiều loại mà cơ thể con người không tự tổng hợp được. Hàm lượng protein trong nhân mắc ca có tới 9,2%, gồm 20 loại axit Amin trong đó có 8 loại thiết yếu cho cơ thể.
Thực tế cho thấy, 1ha mắc ca trồng khoảng 360 cây, đến thời điểm 9 năm tuổi thu được 5 tấn hạt/ha, doanh thu khoảng 600 triệu đồng/ha với giá 120.000đ/kg. Hiệu quả kinh tế cao hơn hẳn so với cây cà phê vì cà phê chỉ đạt năng suất 3,8 tấn/năm, doanh thu 155 triệu đồng/ha.
Tiềm năng phát triển
Triển vọng là thế nhưng cây mắc ca rất khó trồng. Theo PGS. TS Phạm Đức Tuấn, Viện phó Viện Nghiên cứu và Phát triển Công nghệ Nông lâm nghiệp Thành Tây: Cây mắc ca yêu cầu nhiệt độ phải dưới 17oC để phân hóa mầm hoa và yêu cầu độ ẩm thấp khi hoa nở. Điều này có nghĩa không phải vùng khí hậu nào cũng thích hợp. Đó là lý do mà gần 100 năm qua trên thế giới mới chỉ có khoảng 80.000 ha trồng mắc ca.
Việt Nam đã trồng khảo nghiệm cây mắc ca từ năm 1994 tại Ba Vì, Đắc Lắc, Sơn La, và Phú Thọ. Các kết quả cho thấy Việt Nam có nhiều tiềm năng phát triển loại cây trồng đặc biệt này.
“Rất may cho Việt Nam nhờ điều kiện địa hình khác nhau giữa các vùng nên khu vực Tây Bắc và Tây Nguyên là hai nơi có khí hậu rất phù hợp để phát triển cây mắc ca,” PGS.TS Tuấn khẳng định.
Xét về mặt diện tích, theo số liệu của Viện điều tra quy hoạch rừng của Bộ NN&PTNT, tại khu vực Tây Nguyên có khoảng 400.000ha và vùng Tây Bắc có khoảng 40.000ha diện tích phù hợp với việc trồng cây mắc ca.
Một tín hiệu đáng mừng nữa là năng suất mắc ca ở Việt Nam khá cao, đạt 20kg quả/cây, chỉ đứng sau Mỹ (29kg quả/cây). Hơn nữa, chu kỳ kinh doanh của cây mắc ca là 60 năm, hiệu quả hơn so với cây cà phê (20 năm).
Năng suất hạt mắc ca ở Việt Nam trung bình đạt 3 tấn/ha, với giá trung bình 3,5 USD/kg sẽ đem lại thu nhập từ 200-250 triệu đồng/ha cho người nông dân. Chi phí sản xuất 5 năm đầu là 100 triệu đồng/ha, nhưng các năm sau chi phí giảm xuống chỉ còn 15 triệu đồng/ha. Nếu chế biến đóng gói và sản xuất ra các loại thức ăn như: bánh, kẹo, đồ hộp thì giá trị có thể tăng thêm từ 3 đến 20 lần.
Theo TS. Tuấn, nhu cầu hạt mắc ca trên thế giới ngày càng lớn do có thể tạo ra được nhiều sản phẩm đa dạng, có giá trị dinh dưỡng cao. “Thị trường toàn thế giới đến năm 2020 sẽ có khoảng 220.000 tấn nhân, tương đương 650.000 tấn hạt, tuy nhiên nguồn cung này chỉ đáp ứng được 20-25% nhu cầu.”
Rủi ro và cơ hội
Mặc dù, Việt Nam có nhiều tiềm năng phát triển cây mắc ca, nhưng các chuyên gia nông nghiệp và các nhà khoa học khuyến cao: Người dân không nên trồng ồ ạt mà chưa nghiên cứu đầy đủ thông tin, kỹ thuật canh tác và tìm được nguồn giống đạt chuẩn.
“Không nên trồng bằng hạt mà nên trồng bằng cây ghép hoặc chiết. Cần sử dụng các giống cây đã được khả nghiệm và công nhận. Cũng cần lưu ý vùng sinh thái phù hợp với từng giống cây,” TS Tuấn khuyến cáo.
Ông cũng cho rằng: Cần có chính sách quản lý giá cây giống phù hợp vì hiện nay mỗi cây mắc ca giống đang được bán với giá từ 70.000-100.000 đồng là chưa phù hợp.
“Gần 100 năm thế giới mới trồng được 80.000 ha mà Việt Nam quy hoạch trồng 200.000 ha thì cần xem xét tính khả thi của kế hoạch. Hơn nữa, cần có chiến lược phát triển toàn diện với cây mắc ca để tránh cái bẫy trở thành quốc gia cung cấp nguyên liệu giá rẻ. Tuy nhiên, nếu đạt được kế hoạch 200.000 ha thì Việt Nam sẽ đứng đầu thế giới về loại cây này,” TS. Tuấn nhận định.
Trong khi đó, PGS. TS Nguyễn Bá Ngãi, Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ NN&PTNT) khẳng định: Quy hoạch trên là hoàn toàn khả thi vì theo nghiên cứu, việc trồng thuần loài có thể thực hiện với diện tích khoảng 48.000 ha ở Tây Bắc và 9.000 ha ở Tây Nguyên. Ngoài ra, cây mắc ca có thể trồng xen với các loại cây khác như cà phê, chè, và diện tích trồng xen ở Tây Nguyên có thể lên tới 150.000 ha và ở Tây Bắc là 10.000 ha.
“Việt Nam đã nghiên cứu và công nhận 10 giống cây mắc ca. Nước ta cũng đã đưa cây mắc ca vào danh mục cây lâm nghiệp chính để quản lý. Cái khó ở đây là cần xác lập kênh thị trường cụ thể với giá cả cụ thể. Chúng ta cũng chưa có chiến lược toàn diện về cây mắc ca, nhất là quy hoạch chế biến để tranh cái bẫy cung cấp nguyên liệu giá rẻ,” TS Ngãi nói.
Hơn nưa, diện tích trồng mắc ca ở Việt Nam hiện nay còn nhỏ lẻ, manh mún, tổng diện tích cây mắc ca hiện nay ở Việt Nam mới đạt 2.000 ha. Người nông dân chưa được tiếp cận với công nghệ và kỹ thuật sản xuất. Sắp tới giống mắc ca phải được quản lý theo Pháp lệnh giống cây trồng.
Ông Đào Văn Thịnh, Phó giám đốc Sở LĐTBXH tỉnh Sơn La, lãnh đạo Trung tâm Giáo dục & Lao động tỉnh Sơn La, nơi đã trồng thử nghiệm cây mắc ca 10 năm qua, khẳng định: “Cây mắc ca rất dễ chăm sóc, có sức chịu đựng khí hậu tốt và sinh trưởng rất nhanh. Từ năm 2010 Trung tâm đã xây dựng mô hình nhân giống cây mắc ca và đã được cấp chứng nhận cung cấp giống.”
GS. Nguyễn Lân Hùng cũng khẳng định rằng: Các nhà khoa học đã biên soạn đủ các tài liệu hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc cây mắc ca. Điều quan trọng là phải chọn được giống tốt phù hợp với điều kiện sinh thái của vùng trồng. “Không có lý do gì mà chúng ta không bắt tay ngay vào việc trồng mắc ca.”