Thấy gì khi tiền của dân đang “lười” hơn?
Ngày 5/5, Vụ Chính sách tiền tệ (Ngân hàng Nhà nước) công bố một số dữ liệu đáng chú ý trong điều hành sau 4 tháng đầu năm 2014. Nếu xem diễn biến dòng tiền gửi như một chỉ số, thì dường như một bộ phận lớn của đồng vốn trong dân cư đang “lười vận động” hơn…
Đọc những thông tin kinh tế - tài chính mới nhất trên FICA: |
Dòng tiền đang... gà gật
Với người dân, lãi suất liên tục giảm, xuống thấp nhất trong gần cả chục năm qua, nhưng họ vẫn chọn gửi ngân hàng, một phần gắn với niềm tin vào VND như Ngân hàng Nhà nước nhìn nhận, một phần phản ánh họ bí bách, không có kênh đầu tư nào thực sự hấp dẫn và đại chúng để dùng vốn.
Bởi gửi ngân hàng có lẽ là cách làm dễ nhất. Trong 4 tháng đầu năm, riêng tiền gửi bằng VND của người dân đã tăng tới 7,48%.
Và như trên, nếu xem dòng tiền gửi này là một chỉ báo tham khảo, khả năng cải thiện hơn của kinh tế vĩ mô vẫn còn xa khi nhìn vào cơ cấu gửi.
Chỉ cách vài năm trước, hầu hết người dân chỉ chọn gửi các kỳ hạn ngắn để chủ động hơn, linh hoạt hơn trong sử dụng vốn nắm bắt các cơ hội đầu tư; đồng vốn của họ năng động, lỏng hơn trong cơ cấu tiền gửi - một khó khăn đối với các ngân hàng thương mại. Tỷ lệ tiền gửi dài hạn thường chỉ chiếm trên dưới 10% trong cơ cấu tại nhiều nhà băng.
Còn nay, ngay từ trong năm 2013 và cho đến đầu 2014, điểm nổi bật trong báo cáo kết quả kinh doanh của nhiều ngân hàng trong mùa đại hội cổ đông vừa qua là sự dịch chuyển cơ cấu tiền gửi. Một mặt, lượng vốn huy động lãi suất thấp đã tăng lên, giảm bớt áp lực chi phí; mặt khác, tỷ trọng tiền gửi kỳ hạn dài đã tăng lên, có thể chiếm tới 30-40%.
Tuy nhiên, càng nhiều người dân gửi tiền kỳ hạn dài với lãi suất thấp, càng cho thấy họ không kỳ vọng nhiều vào sự khởi sắc nào đó của nền kinh tế trong tương lai gần; họ không dùng để đầu tư, sản xuất kinh doanh hay tiêu dùng trong bối cảnh khó khăn hiện nay.
Ngay cả khi Thủ tướng Chính phủ vừa yêu cầu Ngân hàng Nhà nước tiếp tục tìm cách hạ lãi suất, nhiều khả năng tiền sẽ vẫn “lười vận động” khi chọn két nhà băng.
Thế nhưng, một khi thị trường chứng khoán nổi sóng, hoặc giá vàng cho xu hướng tăng bền vững, thị trường bất động sản ấm lên…, diễn biến dòng tiền gửi có thể ngay lập tức đảo chiều. Đây hẳn cũng là điều Ngân hàng Nhà nước dè chừng khi tính toán khả năng giảm tiếp lãi suất.
USD bớt hấp dẫn
Bên cạnh đó, ở góc độ điều hành chính sách tiền tệ, có thể thấy hai điểm đáng chú ý.
Thứ nhất, vị thế của VND vẫn được khẳng định, gắn với mục tiêu giữ ổn định tỷ giá USD/VND. Tiền gửi bằng VND tăng mạnh, tiền gửi bằng USD giảm mạnh là kết quả của sự chuyển đổi. Như vậy, tình trạng đô la hóa cũng giảm bớt mà Ngân hàng Nhà nước cũng mua vào được lượng lớn ngoại tệ để gia tăng dự trữ quốc gia (4 tháng đầu năm đã mua được khoảng 10 tỷ USD).
Nói cách khác, đồng USD đã giảm bớt sự hấp dẫn trong mắt dân cư; mức độ găm giữ không cao như trước. Như trên, lượng tiền gửi USD đã giảm tới 3,98%, trong khi hầu hết thời gian năm 2013 đều tăng ở mức độ hai con số, thậm chí cuối 2013 có thời điểm tăng gần 19%.
“Tăng trưởng huy động vốn bằng VND cao trong khi huy động vốn bằng ngoại tệ giảm là phù hợp với chủ trương chuyển từ quan hệ huy động - cho vay sang quan hệ mua - bán ngoại tệ và cho thấy niềm tin của người dân vào hệ thống tổ chức tín dụng tăng lên”, Vụ Chính sách tiền tệ cũng nhìn nhận.
Thứ hai, diễn biến của dòng tiền gửi được xem là hợp lý với chủ trương và mong muốn của nhà điều hành khi nó không “lệch lạc” trong thời gian qua. Tức là, dòng tiền gửi vẫn tăng trưởng khả quan trong bối cảnh Ngân hàng Nhà nước đã liên tục cắt giảm lãi suất trong 2013 và đầu 2014; lãi suất đã xuống mức rất thấp nhưng dòng vốn không quá chán nản để rẽ nhiều sang vàng, “đô”, chứng khoán hay bất động sản…
Ở khía cạnh này, có thể xem diễn biến dòng tiền gửi vào hệ thống ngân hàng như một chỉ báo tham khảo cho triển vọng của các kênh đầu tư nói trên, hay kỳ vọng vào mức độ cải thiện hơn của kinh tế vĩ mô trong mắt người gửi tiền là khá hạn chế.
Những năm 2006 - 2011, hầu hết các kênh đầu tư trên đều sôi động và thu hút dòng tiền. Lượng tiền gửi vào hệ thống ngân hàng hạn chế vì bị chia sẻ, vênh với tín dụng ra mạnh là một nguyên nhân khó khăn thanh khoản kéo dài. Tỷ lệ cho vay so với huy động (LDR) giai đoạn đó phổ biến trên 100%.
Nay, sau hai năm liên tiếp tín dụng tăng thấp, tiền gửi tăng cao, các kênh đầu tư khác không còn lôi kéo vốn như trước, cân đối trong hệ thống ngân hàng đang đảo ngược: tiền gửi về dồn ứ, đầu ra thì bí bách. Thực tế, tỷ lệ LDR chung của hệ thống thời gian qua liên tục giảm và hiện đã xuống chỉ còn hơn 83%; nhiều ngân hàng thương mại để hệ số an toàn vốn (CAR) tới 15-20%, thậm chí có trường hợp gần 30%, một phần vì chính họ cũng khó tìm cách đầu tư.
Theo Minh Đức