Phó Thủ tướng: Chính phủ đang kiểm soát tốt nợ nước ngoài của quốc gia!
(Dân trí) - Năm 2018, tổng nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP giảm xuống còn khoảng 46%, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ khẳng định: “Chỉ tiêu nợ nước ngoài của quốc gia dưới mức trần được Quốc hội cho phép là không quá 50% và đang trong tầm kiểm soát của Chính phủ”.
Sáng nay (9/8) tại Trụ sở Chính phủ, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ chủ trì cuộc họp với lãnh đạo một số bộ, ngành và Ủy ban giám sát tài chính tiền tệ quốc gia đánh giá tình hình nợ nước ngoài quốc gia giai đoạn 2011- 2018 và việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp trong 6 tháng đầu năm 2019.
Nợ dưới mức trần Quốc hội cho phép
Theo Luật quản lý nợ công: Nợ nước ngoài của quốc gia là tổng các khoản nợ nước ngoài của Chính phủ, nợ vay nước ngoài được Chính phủ bả lãnh và nợ nước ngoài của doanh nghiệp (DN), tổ chức khác vay theo phương thức tự vay, tự trả.
Bộ Tài chính cho biết, trong giai đoạn 2011-2017, chỉ tiêu nợ ngược ngoài của quốc gia so với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) có xu hướng tang nhanh, bình quân tăng 16,7%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP theo gia hiện hành là 13,0%/năm trong cùng giai đoạn. Nguyên nhân do các khoản tự vay, tự trả của doanh nghiệp (DN) và tổ chức tín dụng bắt nguồn từ nhu cầu vốn tăng cao của các DN.
Đến cuối năm 2017, nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP ở mức 48,9%, sát với ngưỡng 50% được Quốc hội cho phép. Tính đến ngày 31/12/2018, tổng nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP giảm xuống còn khoảng 46%, trong đó nợ nước ngoài của Chính phủ là 19,3% GPD, nợ nước ngoài của Chính phủ bảo lãnh là 4,4% GDP, nợ nước ngoài tự vay tự trả của doanh nghiệp là 22,3% GDP.
Với kết quả nói trên, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ khẳng định: “Chỉ tiêu nợ nước ngoài của quốc gia dưới mức trần được Quốc hội cho phép là không quá 50% và đang trong tầm kiểm soát của Chính phủ. Đặc biệt, nợ nước ngoài của Chính phủ giảm rất mạnh, tốc độ vay thêm rất thấp, chúng ta đã cơ cấu được trong cơ cấu chung”.
Theo lãnh đạo Chính phủ, trước kia tỷ lệ nợ nước ngoài là 60% và trong nước là 40%, nhưng hiện nay tỷ lệ này đã đảo chiều với nợ là 40% và trong nước là 60%, đây là tín hiệu rất tốt. Trong khi đó, nợ nước ngoài của Chính phủ, bao gồm cả nợ Chính phủ bảo lãnh đều được kiểm soát rất tốt, có xu hướng giảm. Bởi nếu nợ nước ngoài càng tăng thì rủi ro về khả năng trả nợ lớn, liên quan đến tỷ giá, uy tín, xếp hạng quốc tế…
“Hiện nay các Hiệp định vay cũng được kiểm soát rất chặt về lãi suất, thậm chí hủy một số Hiệp định vay vốn. So sánh lãi suất giữa trong và ngoài nước, nếu vay trong nước có lợi hơn thì dứt khoát không vay vốn nước ngoài” - Phó Thủ tướng cho hay.
Tuy nhiên, Phó Thủ tướng cũng đánh giá quy mô nợ nước ngoài quốc gia còn tăng nhanh, chủ yếu là do nợ nước ngoài của doanh nghiệp và tổ chức tài chính tín dụng, chiếm 48,4% cơ cấu nợ nước ngoài của quốc gia (tỷ lệ năm 2011 là 25,6% và 40,4% năm 2016). Đặc biệt, việc tăng nhanh nợ nước ngoài của doanh nghiệp chủ yếu lại nằm ở doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với cơ cấu chiếm 78% và tập trung ở một số doanh nghiệp có quy mô lớn.
Lãnh đạo Chính phủ nhấn mạnh việc đảm bảo yêu cầu về an ninh an toàn nợ công nói chung nhằm ổn định vĩ mô. Về tiêu chí giám sát nợ nước ngoài quốc gia, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ yêu cầu phải thực hiện nghiêm theo quy định, kể cả trần nợ công, chỉ tiêu nợ nước ngoài quốc gia so với GDP, nghĩa vụ trả nợ của quốc gia so với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ là các chỉ số quan trọng phải bảo đảm theo đúng yêu cầu của Quốc hội.
Kiểm soát việc phát hành trái phiếu DN
Trong 6 tháng đầu năm 2019, tổng mức phát hành trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) là 116.085 tỷ đồng, tăng 7,4% so với cùng kỳ 2018, Lãi suất TPDN bình quân là 9,5%- 11%/năm. Quy mô thị trường TPDN tới hết tháng 6/2019 có mức vốn hoá bằng 10,22% GDP, tăng 21% so với cùng kỳ 2018, vượt mục tiêu đặt ra là 7% GDP vào năm 2020.
Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ đánh giá, thị trường TPDN có sự phát triển nhanh trong thời gian qua vì các DN có nhu cầu vốn lớn để sản xuất kinh doanh trong khi tăng trưởng tín dụng có xu hướng được quản lý chặt chẽ hơn, nhất là các lĩnh vực còn nhiều rủi ro như bất động sản.
Tuy nhiên, Phó Thủ tướng cho rằng, nếu không kiểm soát tốt việc phát hành TPDN (với lãi suất huy động quá cao - PV) sẽ có rủi ro, ảnh hưởng tới thị trường tín dụng và cân đối vĩ mô. Phó Thủ tướng dẫn chứng, lãi suất một số đợt phát hành cao từ 13- 14%, cá biệt có DN bất động sản phát hành tới 14 - 15% cao hơn lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng khác.
“Tổ chức phát hành trái phiếu DN hầu như chưa được xếp hạng tín nhiệm nên tiềm ẩn rủi ro cho nhà đầu tư, nhất là nhà đầu tư cá nhân không đủ thông tin phân tích rủi ro. Có 70% DN phát hành trái phiếu sử dụng tài sản và tài sản hình thành từ nguồn hình thành trái phiếu nhưng chưa được định giá bởi tổ chức định giá độc lập và khó xác minh các tranh chấp pháp lý...” - Phó Thủ tướng nói.
Lãnh đạo Chính phủ giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành tiếp tục hoàn thiện dự thảo luật chứng khoán theo ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, trong đó rà soát quy định cụ thể phát hành trái phiếu riêng lẻ theo hướng chỉ dành cho nhà đầu tư chuyên nghiệp có năng lực phân tích tài chính và khả năng đánh giá rủi ro.
Đối với việc phát hành TPDN ra công chúng, Bộ Tài chính sửa đổi các quy định để rút ngắn quy trình phát hành và thúc đẩy DN huy động vốn theo phương thức này, gắn phát hành ra công chúng bắt buộc với xếp hạng tín nhiệm...
Châu Như Quỳnh