Năng suất lao động ở Việt Nam: Ngành năng lượng chiếm đầu bảng
(Dân trí) - Theo Viện Năng suất Việt Nam, trong 8 ngành công nghiệp chủ lực là dệt may, da giày, nhựa, thép, hóa chất, cơ khí chế tạo, năng lượng, điện, điện tử - tin học, ngành năng lượng có năng suất lao động cao nhất, ước tính trên 350 nghìn tỷ đồng và tốc độ tăng trưởng là 6,4%/năm. Năm 2015, năng suất lao động của ngành này bình quân đạt trên 1 tỷ đồng/người lao động.
Đây là thông tin được Viện Năng suất Việt Nam đưa ra tại Hội thảo cải tiến, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm hàng hóa được tổ chức mới đây.
Đánh giá về cải thiện năng suất lao động trong các ngành sản xuất hiện nay, lãnh đạo ngành Công Thương cho biết, hiện năng suất lao động trong ngành công thương đang có sự tăng trưởng so với trước. Nếu như năm 1990 năng suất lao động ngành công thương chỉ khoảng 2.800 USD/người, thì đến nay đã tăng lên hơn 8.000 USD/người/năm, tăng gấp 3 lần sau hơn 20 năm.
Năng suất lao động ngành hóa chất đạt bình quân 450 triệu đồng/người/năm và tốc độ tăng bình quân 5,1%/năm. Ngành điện, điện tử - tin học có năng suất lao động đứng thứ 3 khi đạt thu nhập bình quân 380 triệu đồng/người/năm. Tiếp đến là lao động ngành cơ khí có năng suất 300 triệu đồng/lao động và tốc độ tăng trưởng bình quân 7,7%/năm.
Nhóm ngành có sản phẩm xuất khẩu chủ lực như dệt may, da giày nhưng lại có năng suất thấp, bình quân năng suất của ngành dệt may chỉ đạt 76 triệu đồng/người/năm, ngành da giày cũng chỉ đạt 74 triệu đồng/người/năm. Năng suất của ngành dệt may gần như không thay đổi trong giai đoạn 2011-2015 với tốc độ tăng trưởng bình quân 0,4%/năm, ngành da giày nhỉnh hơn với mức bình quân 4,9%/năm.
Cuối cùng là ngành thép được đánh giá là có mức tăng năng suất cao nhưng lại đang có xu hướng giảm với mức tăng trưởng bình quân âm 6% những năm gần đây.
Dù tăng trưởng năng suất bình quân ở một số ngành cao song theo đánh giá của Viện Năng suất Việt Nam và Bộ Công Thương, nhiều chỉ số cho thấy năng suất lao động vẫn chưa thực sự chuyển biến, vẫn phụ thuộc vào tài nguyên, lao động giá rẻ. Các ngành có năng suất bình quân cao thuộc về nhóm ngành trên chủ yếu dựa vào lợi thế khai thác tài nguyên sẵn có và gia tăng đầu tư. Tăng năng suất nhờ đóng góp của đổi mới công nghệ, ứng dụng khoa học, phương thức quản lý hiện đại trong các ngành còn hạn chế.
Đặc biệt, theo lãnh đạo Vụ Khoa học Công nghệ, yếu điểm của Việt Nam hiện vẫn nằm ở tư duy, kinh doanh theo kiểu nông nghiệp, manh mún, nhỏ lẻ, biểu hiện rõ nét nhất là trình độ quản lý, quản trị doanh nghiệp lạc hậu, chưa bắt với những xu hướng hiện đại của doanh nghiệp trên thế giới.
Viện Năng suất Việt Nam cho hay, ngành năng lượng và thép có mức trang bị vốn trên một lao động rất cao tương ứng 4,05 tỷ đồng/người và 3,36 tỷ đồng/người. Hai ngành này có năng suất cao dựa trên cường độ vốn cao. Trong đó, vốn cho ngành thép không ngừng gia tăng với tốc độ 28,8%/năm và đầu tư vào ngành này không ngừng tăng lên trong những năm gần đây nhưng năng suất lao động của ngành này không ngừng đi xuống.
Trong các ngành nêu trên, điện, điện tử - tin học cải thiện năng suất tốt nhất, tốc độ tăng năng suất lao động cao và đáng chú ý là tốc độ tăng năng suất này dựa trên năng suất có yếu tố tổng hợp chứ không chỉ dựa vào vốn. Xét về lao động, lao động ngành năng lượng chiếm 7%, lao động trong ngành da giày chiếm 24%, dệt may 33%, điện, điện tử, viễn thông và công nghệ thông tin chiếm 22%...
Theo ông Nguyễn Phú Cường, Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ (Bộ Công Thương), trong bối cảnh hội nhập, các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến công nghệ nâng cao năng suất chất lượng và mô hình quản trị. Việc này quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập.
Thực trạng năng suất ở Việt Nam vẫn đang có một khoảng cách khá lớn so với các nước phát triển và đang phát triển trong khu vực khi Singapore gấp 14,5 lần, Nhật Bản gấp 10,8 lần, Malaysia gấp 7,3 lần và Thái Lan gấp 2,9 lần năng suất lao động của Việt Nam.
Nguyễn Tuyền