Doanh nghiệp nhà nước hiệu quả kinh doanh còn thấp, chưa tương xứng nguồn lực
(Dân trí) - Chính phủ đánh giá, chất lượng công tác cổ phần hóa của DNNN còn hạn chế trong khi chất lượng quản trị chậm cải thiện, hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp còn thấp, chưa tương xứng với nguồn lực đang nắm giữ.
Báo cáo đánh giá giữa kỳ thực hiện Nghị quyết số 24/2016/QH14 về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 gửi lên Quốc hội của Chính phủ cho biết, tới thời điểm hiện nay, có 77% số mục tiêu đã hoàn thành hoặc dự kiến hoàn thành.
Theo đó, Chính phủ đã có những đánh giá về kết quả tái cơ cấu ba trọng tâm gồm đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và các tổ chức tín dụng (TCTD).
Tái cơ cấu DNNN chậm, TCTD còn nhiều vướng mắc
Kết quả cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, đánh giá sơ bộ cho thấy, cổ phần hóa và thoái vốn tại các doanh nghiệp nhà nước đạt kết quả khá, thực hiện thoái vốn nhà nước thành công tại một số DNNN quy mô lớn. Một số DNNN yếu kém trở lại hoạt động. Số nhóm ngành, lĩnh vực Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ giảm mạnh. Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp đã được thành lập và chính thức hoạt động.
Bên cạnh các kết quả đáng ghi nhận như trên, quá trình cơ cấu lại DNNN đang tiến triển chậm về một số chỉ tiêu phản ánh chất lượng của quá trình cơ cấu lại DNNN, như chất lượng công tác cổ phần hóa còn hạn chế, chất lượng quản trị DNNN chậm cải thiện, hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhiều DNNN còn thấp, chưa tương xứng với nguồn lực đang nắm giữ.
Đối với cơ cấu lại đầu tư công, các mục tiêu hoàn thành và có khả năng hoàn thành liên quan đến nâng cao kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động đầu tư công, cắt giảm tình trạng đầu tư dàn trải và nợ đọng xây dựng cơ bản. Các dự án quan trọng quốc gia được đẩy nhanh tiến độ. Giải ngân vốn đầu tư công từng bước được cải thiện nhờ những nỗ lực tháo gỡ khó khăn của Chính phủ.
Tuy nhiên, còn có một số mục tiêu khó hoàn thành, đặc biệt là mục tiêu nâng cao chất lượng thể chế quản lý đầu tư công của Việt Nam để đáp ứng thông lệ quốc tế tốt. Tình trạng lãng phí, chất lượng công trình thấp chưa được giải quyết triệt để.
Kết quả cơ cấu lại các TCTD cho thấy, việc xử lý nợ xấu tại các TCTD đã được thực hiện thực chất hơn, lãi suất cho vay trung bình giảm, dòng vốn tín dụng chuyển dịch nhiều hơn vào các ngành sản xuất để hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế.
Bên cạnh đó, còn có một số vấn đề khó khăn trong cơ cấu lại các TCTD như: tình trạng sở hữu chéo tại một số TCTD còn chưa được giải quyết dứt điểm; việc thực hiện cơ cấu lại đối với các NHTM có vốn Nhà nước gặp khó khăn về bổ sung vốn; tiến độ xử lý cơ cấu lại đối với một số TCTD phi ngân hàng có cổ đông lớn là các Tập đoàn/Tổng Công ty nhà nước còn chậm. Tỷ lệ tín dụng cũng như tổng nợ trong nước (nợ trong nước của Chính phủ và dư nợ tín dụng) so với GDP đã ở mức cao.
"Do vậy, nếu tốc độ tăng tín dụng tiếp tục tăng nhanh hơn đáng kể so với tốc độ tăng GDP, trong trung và dài hạn sẽ có rủi ro dẫn tới mất ổn định kinh tế vĩ mô", Chính phủ đánh giá.
Doanh nghiệp tư nhân quy mô nhỏ, tỷ lệ làm ăn có lãi thấp
Đáng lưu ý, về nội dung phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong nước và thu hút hợp lý đầu tư trực tiếp nước ngoài, báo cáo cho hay, giai đoạn 2016 - 2018, chính sách phát triển kinh tế tư nhân tiếp tục được hoàn thiện, thủ tục hành chính và các điều kiện kinh doanh bất hợp lý gây cản trở được rà soát, cắt bỏ.
Kết quả giai đoạn 2016 - 2018, số doanh nghiệp thành lập mới liên tiếp đạt kỷ lục cả về số lượng và số vốn đăng ký, trong khi số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có xu hướng giảm qua các năm. Đồng thời, đã xuất hiện các doanh nghiệp tư nhân tiên phong trong đổi mới, sáng tạo và có năng lực cạnh tranh quốc tế.
Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng doanh nghiệp mới đang có xu hướng chững lại, dự báo cả năm 2018 có khoảng 130.000 doanh nghiệp thành lập, chỉ tăng 2,5% so với năm 2017 và mục tiêu đạt được 1 triệu doanh nghiệp vào năm 2020 khó hoàn thành.
"Doanh nghiệp tư nhân vẫn có quy mô nhỏ, tỷ lệ doanh nghiệp làm ăn có lãi vẫn thấp, mức độ kết nối của doanh nghiệp tư nhân vào nền kinh tế toàn cầu còn nhiều hạn chế", báo cáo Chính phủ nêu.
Về thu hút vốn đầu tư FDI, vốn FDI đăng ký trong giai đoạn 2016-2018 ước đạt 99,5 tỷ USD, tăng 73,7% so với giai đoạn 2011 - 2013 và tăng 40% so với kế hoạch 2016 - 2018, và đã có nhiều đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và thu ngân sách.
Tuy nhiên, các thể chế lựa chọn và quản lý dự án đầu tư nước ngoài còn chậm được hoàn thiện, dẫn tới mục tiêu thu hút công nghệ cao, công nghệ nguồn và chuyển giao công nghệ chưa đạt được như kỳ vọng. Một số dự án tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường và tiêu tốn nhiều năng lượng.
Phương Dung