Từ "khoán 10" đến người Việt dùng điện hạt nhân, lướt mạng vệ tinh
(Dân trí) - Từ những công trình khoa học ra đời giữa chiến khu, Việt Nam đã và đang bước vào một kỷ nguyên mới - nơi những bước chân của nhà khoa học không chỉ in dấu trên đất mẹ, mà còn vươn xa ra thế giới.

Trụ cột quan trọng xuyên suốt tiến trình lịch sử đất nước
Ngày 19/9/1946, chàng trai Trần Đại Nghĩa từ Pháp về nước cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo cuốn hồi ký "Trở về Tổ quốc kính yêu", ngày trở về, ông mang theo 1 tấn tài liệu được đóng hòm, dán nhãn "ngoại giao".
Trước đó, trí thức trẻ này được hưởng mức lương của kỹ sư trưởng là 5.500 franc/tháng, tương đương khoảng 22 lượng vàng lúc bấy giờ.

GS Trần Đại Nghĩa (thứ ba, từ phải sang) cùng cán bộ quân giới xem một số loại vũ khí do một nhà máy quốc phòng chế tạo (Ảnh: Tư liệu).
Với kinh nghiệm của 11 năm âm thầm nghiên cứu kỹ thuật và hệ thống tổ chức chế tạo vũ khí trong quá trình du học, GS Trần Đại Nghĩa cùng đồng đội xây dựng và phát triển ngành quân giới, chế tạo ra nhiều loại vũ khí mới trong điều kiện vô cùng thiếu thốn về vật tư thiết bị, trong đó nổi bật nhất là súng và đạn Bazooka, súng không giật SKZ, góp phần quan trọng để quân đội ta chiến thắng trên chiến trường.
3 năm sau chuyến hồi hương của GS Trần Đại Nghĩa, theo lời kêu gọi của Bác Hồ, một trí thức người Việt khác cũng từ bỏ các điều kiện vật chất trong mơ đối với người làm khoa học, để vượt qua muôn vàn khó khăn tìm đường về nước phục vụ kháng chiến, phục vụ quân đội, phục vụ nhân dân: GS Đặng Văn Ngữ.
Hành trang mang theo của ông, ngoài ít vật dụng cá nhân là một ống nấm Souche Penicillium (giống Penicillium) để rồi sau này làm nên cuộc cách mạng trong việc điều chế Penicillin kết tinh (bột) và "nước lọc" Penicillin.

GS Đặng Văn Ngữ (Ảnh: Tư liệu).
Trong phòng lab dã chiến lợp bằng lá cây giữa núi rừng Việt Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, GS Đặng Văn Ngữ đã dùng ngô, sắn và cả lương khô để điều chế môi trường nuôi cấy nấm.
Từ một phòng thí nghiệm nghèo nàn, ông đã tổ chức sản xuất được nước lọc penicillin nổi tiếng.
Việc sản xuất được nước lọc penicillin của GS Đặng Văn Ngữ có ý nghĩa đặc biệt, góp phần đắc lực cho công cuộc kháng chiến chống Pháp đi đến thắng lợi.
Đến Tết năm 1967, thứ dung dịch màu vàng nhạt ấy đã có mặt ở hầu khắp các trạm phẫu thuật tiền tuyến, giúp 80% thương binh thoát khỏi cưa tay, cưa chân, không tử vong vì nhiễm trùng.
Xuyên suốt tiến trình lịch sử của đất nước, khoa học công nghệ luôn đóng vai trò quan trọng: Từ công cụ phục vụ cách mạng, kiến thiết đất nước đến động lực phát triển của đất nước trong giai đoạn đổi mới.
Ngày 18/5/1963, tại Đại hội lần thứ Nhất của Hội Phổ biến khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: "Khoa học phải từ sản xuất mà ra và phải trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng suất lao động và không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân".
Lời dạy của Người không chỉ mang ý nghĩa định hướng thời đại mà còn là nền móng tư tưởng cho chiến lược phát triển KH&CN nước nhà.
Từ tư tưởng đó, trải qua hơn 60 năm, Việt Nam đã từng bước phát triển hệ sinh thái khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Từ khởi điểm là một quốc gia nông nghiệp lạc hậu đến nay đã làm chủ nhiều công nghệ tiên tiến, bước đầu khẳng định vị thế trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, y học kỹ thuật cao, nông nghiệp, sản xuất vệ tinh, vi mạch bán dẫn, trí tuệ nhân tạo và chuyển đổi số.
Chính sách đột phá: Bệ phóng để khoa học công nghệ vươn mình
Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: "Phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước".
Tinh thần này tiếp tục được cụ thể hóa và nâng tầm trong các Nghị quyết quan trọng của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Nghị quyết 57 đã xác định khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số phải thực sự trở thành đột phá chiến lược, động lực chính để đưa Việt Nam trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045.

Tổng Bí thư Tô Lâm ví Nghị quyết 57 như "Khoán 10" trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, qua đó thể hiện khát vọng phát triển mãnh liệt và quyết tâm vươn lên của dân tộc (Ảnh: Phạm Thắng).
Nghị quyết 57 cũng nhấn mạnh 3 định hướng quan trọng, đó là:
- Tăng đầu tư, hoàn thiện hạ tầng phục vụ nghiên cứu và chuyển đổi số, tạo nền tảng cho phát triển công nghệ.
- Cởi trói thể chế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để các nhà khoa học dám nghĩ, dám làm, dám đề xuất ý tưởng mới.
- Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, giúp nâng cao trình độ chuyên môn, mở rộng mạng lưới nghiên cứu và đưa các vấn đề của Việt Nam ra toàn cầu để cùng tìm giải pháp.
Phát biểu tại "Ngày hội Khoa học và Công nghệ Việt Nam 18-5", diễn ra chiều 16/5, Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh, Chính phủ xác định rõ, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số chính là con đường ngắn nhất, là yếu tố có ý nghĩa sống còn để Việt Nam thực hiện khát vọng phát triển nhanh, bền vững, bao trùm, và tự chủ, trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045.

Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng cho biết, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là con đường ngắn nhất, là yếu tố có ý nghĩa sống còn để Việt Nam thực hiện khát vọng hùng cường, thịnh vượng (Ảnh: Mai Hà).
"Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo không chỉ là động lực tăng trưởng kinh tế, mà còn là nền tảng để xây dựng một Việt Nam thịnh vượng; là công cụ chiến lược để nâng cao năng suất lao động, bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu, và nâng cao chất lượng đời sống nhân dân", Phó Thủ tướng nhấn mạnh.
Theo Bộ trưởng Bộ Khoa học - Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số không chỉ là động lực, mà còn là sứ mệnh quốc gia. Bộ Khoa học - Công nghệ sẽ đột phá cải cách từ thể chế đến cơ chế tài chính, từ tư duy quản lý đến cách đánh giá kết quả đầu ra, nhằm thúc đẩy tri thức trở thành động lực tăng trưởng thực sự.

Theo Bộ trưởng Bộ Khoa học - Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số không chỉ là động lực, mà còn là sứ mệnh quốc gia (Ảnh: M.H.).
Dưới góc độ nhà khoa học, PGS.TS Phạm Thị Thanh Ngà, Viện trưởng Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu nhận định, Nghị quyết 57 là một dấu mốc quan trọng, mở ra nhiều cơ hội và định hướng chiến lược cho các nhà khoa học đóng góp vào động lực xây dựng và phát triển của đất nước.
"Đây là động lực lớn cho các nhà khoa học tiếp tục khám phá, tìm tòi những bí mật của trời đất, như chính nhận định của Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng: Nghiên cứu khoa học là lấy bí mật của trời, là hoạt động tìm ra, khám phá, còn phát triển công nghệ mới là không gian sáng tạo của con người.


Nhận định này đặc biệt quan trọng với lĩnh vực khoa học của tôi là khoa học trái đất, khi chúng ta chứng kiến biến đổi khí hậu đang thực sự diễn ra với những kỷ lục về nhiệt độ liên tục bị phá vỡ", PGS Ngà nhấn mạnh.
Hoàng Khắc Hiếu - kỹ sư sinh năm 1996 hiện là Trưởng phòng Phát triển 2, Trung tâm Giải pháp Chính phủ, Viettel Solution, người đang đứng sau loạt giải pháp công nghệ được xuất khẩu sang nhiều quốc gia phát triển nhận định: Chưa bao giờ cơ hội với nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam lại rộng mở như hiện tại.
"Với Nghị quyết 57 tạo động lực, Việt Nam đang tạo ra một môi trường thuận lợi chưa từng có cho khoa học công nghệ phát triển. Tôi có niềm tin rằng thế hệ các nhà khoa học và kỹ sư tiếp theo sẽ tạo nên những bước tiến vượt bậc.
Nghị quyết 57 không chỉ là định hướng vĩ mô, mà thực sự đang tạo ra những thay đổi cụ thể từ môi trường làm việc, đến chính sách đãi ngộ và cơ hội thể hiện của người trẻ", Hiếu nhấn mạnh.
Tương lai người Việt dùng điện hạt nhân, lướt mạng vệ tinh
Chúng ta đang sửa Luật Khoa học và Công nghệ thành luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo để thể chế hóa các định hướng, chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước.
Trong luật mới, lần đầu tiên, Việt Nam xác lập định hướng rõ ràng về việc chuyển từ một quốc gia chủ yếu sử dụng công nghệ lõi sang làm chủ các công nghệ chiến lược có tác động lớn đến tăng trưởng kinh tế và an ninh quốc gia.

Kỳ họp bất thường lần thứ 9 của Quốc hội khóa XV (Ảnh: Phạm Thắng).
Tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9 của Quốc hội khóa XV, diễn ra từ ngày 12/2 đến sáng 19/2, các đại biểu đã thảo luận và đi đến thống nhất thông qua loạt nghị quyết quan trọng. Trong đó, nổi bật là quyết định thí điểm đầu tư mạng viễn thông vệ tinh quỹ đạo tầm thấp, tái khởi động dự án điện hạt nhân Ninh Thuận và cơ chế đặc thù cho nghiên cứu khoa học.
Những quyết sách này không chỉ phản ánh tầm nhìn dài hạn mà còn là minh chứng cho quyết tâm của Việt Nam trong hành trình chinh phục các đỉnh cao công nghệ, đảm bảo an ninh năng lượng và thông tin quốc gia.
Cơ chế đặc thù cho điện hạt nhân

Quốc hội thông qua chính sách đặc biệt về điện hạt nhân (Ảnh minh họa: Getty).
Việt Nam tiến tới làm chủ công nghệ năng lượng hạt nhân để phát triển kinh tế xã hội, dần hình thành ngành công nghiệp hạt nhân. Nhà nước cũng đẩy mạnh phát triển thị trường nội địa về công nghệ hạt nhân, chế tạo trang thiết bị, hoạt chất phóng xạ, phục vụ phát triển ứng dụng năng lượng hạt nhân.
Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc biệt đầu tư xây dựng dự án điện hạt nhân Ninh Thuận được Quốc hội thông qua sáng 19/2, với 96,03% tổng số đại biểu Quốc hội tán thành.
Nghị quyết này quy định một số cơ chế, chính sách đặc biệt để đầu tư xây dựng Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận, gồm nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1, nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 2 và các dự án thành phần, cùng một số cơ chế, chính sách đặc biệt áp dụng cho tỉnh Ninh Thuận để thực hiện dự án.
Một trong những ưu điểm lớn nhất của năng lượng hạt nhân là khả năng phát điện liên tục, ổn định với hệ số công suất cao, không phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên như gió hay mặt trời. Quan trọng hơn, công nghệ điện hạt nhân gần như không phát thải khí nhà kính trong quá trình vận hành - yếu tố đặc biệt quan trọng trong bối cảnh Việt Nam cam kết trung hòa carbon vào giữa thế kỷ.
Việc phát triển điện hạt nhân không chỉ giúp đa dạng hóa nguồn cung năng lượng, còn là cách để Việt Nam giảm dần sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch, nhất là than đá - vốn đang chiếm tỷ trọng lớn nhưng đối mặt với áp lực giảm mạnh do yếu tố môi trường và tài chính quốc tế.
Phát triển viễn thông vệ tinh tầm thấp

Quốc hội đã cho phép triển khai thí điểm có kiểm soát dịch vụ viễn thông sử dụng công nghệ vệ tinh quỹ đạo tầm thấp (Ảnh: Getty).
Theo Nghị quyết về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Quốc hội đã cho phép triển khai thí điểm có kiểm soát dịch vụ viễn thông sử dụng công nghệ vệ tinh quỹ đạo tầm thấp (LEO).
Đây là bước đi chiến lược giúp Việt Nam nâng cao năng lực kết nối viễn thông, thu hẹp khoảng cách số giữa các vùng miền và tạo nền tảng hạ tầng cho chuyển đổi số quốc gia.
Theo đó, việc thí điểm sẽ kéo dài không quá 5 năm và phải kết thúc trước ngày 1/1/2031. Quá trình triển khai phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản về an ninh, quốc phòng, bảo mật thông tin và lợi ích quốc gia.
Nghị quyết nhấn mạnh không giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần, phần vốn góp hoặc tỷ lệ đóng góp của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này.
Thí điểm dịch vụ viễn thông vệ tinh tầng thấp sẽ cho phép các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ với cơ chế cấp phép sử dụng tần số linh hoạt, giảm thiểu thủ tục hành chính.
Việc triển khai mạng vệ tinh LEO sẽ mang lại nhiều lợi ích thiết thực, đặc biệt trong việc nâng cao khả năng kết nối tại các khu vực hẻo lánh, biên giới, hải đảo.
Việt Nam định hướng trở thành trung tâm bán dẫn toàn cầu

Mục tiêu của Việt Nam không chỉ là tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, mà còn hướng tới xây dựng một hệ sinh thái công nghiệp bán dẫn tiên tiến (Ảnh: Getty).
Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về thí điểm một số chính sách, cơ chế đặc biệt tạo đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Điểm quan trọng của nghị quyết này là cho phép hỗ trợ tài chính xây dựng nhà máy đầu tiên để phục vụ nghiên cứu, đào tạo và sản xuất chip bán dẫn.
Theo đó, doanh nghiệp Việt Nam đầu tư xây dựng nhà máy đầu tiên được lựa chọn để chế tạo chip quy mô nhỏ, công nghệ cao, phục vụ nghiên cứu, đào tạo, thiết kế, chế tạo thử, kiểm chứng công nghệ và sản xuất chip bán dẫn chuyên dụng của Việt Nam theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ thì được hỗ trợ.
Chính phủ đã ban hành Chiến lược phát triển ngành công nghiệp bán dẫn đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050, với mục tiêu đưa Việt Nam trở thành trung tâm nhân lực bán dẫn toàn cầu vào năm 2030 và trung tâm về công nghiệp bán dẫn và điện tử toàn cầu đến năm 2040.
Mục tiêu của Việt Nam không chỉ là tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, mà còn hướng tới xây dựng một hệ sinh thái công nghiệp bán dẫn tiên tiến, hấp dẫn của khu vực và thế giới, giúp Việt Nam tự chủ và phát triển bền vững trong lĩnh vực này.
Với tinh thần tiên phong, Bộ KH&CN cam kết tiếp tục đồng hành cùng cộng đồng khoa học, doanh nghiệp và người dân, kiến tạo một hệ sinh thái đổi mới toàn diện - nơi mỗi ý tưởng sáng tạo đều có cơ hội trở thành hiện thực, mỗi sản phẩm khoa học đều góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo vệ môi trường và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Cam kết hành động của Bộ KH&CN trong thời gian tới được cụ thể hóa qua các trụ cột chiến lược:
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách thúc đẩy nghiên cứu - đổi mới - ứng dụng công nghệ.
- Khơi thông nguồn vốn, đa dạng hóa hình thức tài trợ, đơn giản hóa quy trình hỗ trợ nghiên cứu.
- Tái định vị vai trò doanh nghiệp - từ đối tượng thụ hưởng thành chủ thể dẫn dắt sáng tạo và thương mại hóa công nghệ.
- Ưu tiên phát triển các công nghệ trọng điểm như AI, vi mạch, sinh học, năng lượng mới, công nghệ số - làm nền tảng bứt phá.
- Thúc đẩy liên kết viện - trường - doanh nghiệp - Nhà nước để hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo toàn diện.