"Nước mắt vịnh tôm hùm" và những vụ mùa tiền tỷ đặt cược vào ông trời
(Dân trí) - Khi thiên nhiên chỉ cần vài giờ để lấy đi những gì người dân đã đổ mồ hôi suốt nhiều năm, câu hỏi lớn nhất đặt ra là: Bao giờ nông nghiệp Việt mới có một “lá chắn” đủ mạnh trước thiên tai?
Cơ nghiệp tiền tỷ trôi theo dòng nước dữ
Sau trận mưa lũ lịch sử, thủ phủ tôm hùm phường Sông Cầu (Đắk Lắk) đìu hiu lạ thường.
Bê những khay tôm hùm chết trắng vì sốc nước ngọt, ông Trần Văn Hà (phường Xuân Đài) vẫn còn bần thần như chưa thể tin những mất mát quá lớn này đã xảy ra với chính cơ nghiệp của mình.
Cả năm trời vay mượn, thức trắng với con nước, ông Hà nuôi hơn 500 lồng tôm hùm, tính bụng chỉ ít tháng nữa sẽ có một cái Tết ấm no.

Nhiều nông dân "trắng tay" do tôm hùm bị chết do mưa lũ (Ảnh: Uy Nguyễn).
Thế nhưng, sau trận lũ đổ ào ra biển, phần lớn tôm chết trắng, số còn tươi được ông và nhiều hộ nuôi vớt vội bán rẻ cho thương lái với giá chỉ khoảng 30.000 đồng/kg, rẻ hơn cả các loại cá bình dân.
“Mưa lũ khiến tôm chết hàng loạt, thiệt hại của chúng tôi là hơn 10 tỷ đồng. Nhìn cơ ngơi tan hoang sau lũ, ruột gan tôi như thắt lại”, ông Hà chua xót.
Gần đó, gia đình ông Nguyễn Văn Tuấn nuôi khoảng 180 lồng tôm hùm, chuẩn bị cho thu hoạch và mưa lũ gây tôm chết sạch.
"Gia đình tôi rơi vào tình cảnh "trắng tay", thiệt hại quá lớn, khoảng 4 tỷ đồng. Chúng tôi không biết phải vực lại từ đâu đây", ông Tuấn buồn bã nói.


Thông tin từ UBND phường Sông Cầu (tỉnh Đắk Lắk), mưa lũ trên địa bàn đã khiến khoảng 16.000 lồng nuôi tôm hùm bị chết, ảnh hưởng (chiếm khoảng 95% số lượng lồng nuôi tôm hùm tại phường), gây thiệt hại gần 2.500 tỷ đồng.
Còn theo báo cáo của UBND phường Xuân Đài, mưa bão gây thiệt hại cho địa phương hơn 626 tỷ đồng, trong đó ngư dân nuôi tôm thiệt hại khoảng 610 tỷ đồng.
Những giọt nước mắt mặn chát của ngư dân rơi xuống vùng biển vốn được gọi là “thủ phủ tôm hùm” của miền Trung, hòa lẫn trong mùi tanh của tôm chết.
Những giọt nước mắt đó không chỉ rơi cho một vụ nuôi, một vụ mùa mất trắng. Đó là nước mắt của những người đã dốc hết vốn liếng, sức lực.
Trong lúc người nuôi tôm hùm còn đang gắng gượng dậy sau thiên tai, ở các chợ Hà Nội, TPHCM... rất nhiều bà nội trợ lại thở dài trước rổ rau. Rau muống, cải, mồng tơi, xà lách, cà chua, dưa chuột… đồng loạt tăng giá, có loại chỉ sau vài hôm đã “nhảy” gấp rưỡi, gấp đôi.

Một người bán rau ở khu vực chợ dân sinh tại TPHCM (Ảnh: Quỳnh Tâm).
Tỉnh Lâm Đồng cung ứng 60-70% nguồn nông sản cho TPHCM. Tuy nhiên thời gian qua, mưa lớn và sạt lở khiến cho TPHCM đứng trước nguy cơ thiếu hụt nguồn cung, đặc biệt là rau, củ, quả.
Bà Nguyễn Thị Khuyên, người dân xã D’ran (Lâm Đồng) cho biết, gia đình có 1ha vườn cạnh sông Đa Nhim phục vụ sản xuất bắp cải. Những ngày mưa lũ vừa qua, vườn rau gần đến ngày thu hoạch bị nước nhấn chìm hoàn toàn, mất trắng.
Theo thống kê sơ bộ của cơ quan chức năng, đến ngày 22/11, Lâm Đồng có khoảng 3.000ha cây trồng, chủ yếu là hoa màu bị thiệt hại. Trong đó, một số vùng chuyên sản xuất rau bị thiệt hại nặng gồm: xã D’ran khoảng 300ha; xã Ka Đô hơn 150ha; xã Quảng Lập hơn 150ha; xã Quảng Phú thiệt hại khoảng 50ha.

Một vườn nho bị tàn phá sau bão lũ (Ảnh: Bảo Quyên).
Làng rau Bàu Tròn, được mệnh danh là vựa rau lớn nhất tỉnh Quảng Nam cũ (nay thuộc xã Đại Lộc, thành phố Đà Nẵng) với gần 50ha và hơn 190 hộ dân chuyên canh, tan hoang sau nhiều ngày ngập lụt.
“Lũ lớn đã làm mất trắng 7 sào rau màu của gia đình tôi, bao gồm khổ qua, mướp, đu đủ… Chỉ tính riêng công đầu tư đã là 5 triệu đồng/sào, nay mất toàn bộ. Lũ lên quá nhanh, nông dân không kịp trở tay, nhiều cánh đồng hoa màu bị lũ cuốn trôi hàng trăm mét”, ông Phan Đình Hưng (59 tuổi) chia sẻ.
Việt Nam đã quen với bão, với lũ. Thế nhưng, mỗi lần thiên tai đi qua, người nông dân lại “trắng tay” theo đúng nghĩa đen, còn người thành phố chật vật xoay xở với những cú sốc giá bất ngờ.
Hai bức tranh cùng chung một nỗi đau: nông nghiệp Việt Nam đang quá mong manh trước những cú sốc thiên tai ngày một dữ dội.


Những vụ nuôi trồng đặt cược vào sự hiền hòa của thời tiết
Từ góc nhìn chuyên môn, TS Lê Việt Dũng, khoa Thủy sản, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, cho rằng những gì xảy ra với tôm hùm ở Sông Cầu, Xuân Đài không chỉ là “tai nạn bất ngờ”, mà là hệ quả của một cấu trúc sản xuất vốn đã chất chứa rủi ro.

TS Lê Việt Dũng, khoa Thủy sản, Học viện Nông nghiệp Việt Nam (Ảnh: Nhân vật cung cấp).
Nuôi tôm hùm lồng biển nhiều năm qua được coi là “mỏ vàng” của một bộ phận ngư dân miền Trung. Nhưng chính sức hấp dẫn kinh tế đó lại kéo theo xu hướng mở rộng ồ ạt, mật độ lồng tăng nhanh trong một không gian vịnh, đầm vốn có giới hạn.
“Người nuôi bỏ hàng tỷ đồng xuống biển, nhưng phần lớn vẫn chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, ít có lớp ‘áo giáp’ kỹ thuật và hạ tầng để bảo vệ khi có thiên tai.
Theo TS Dũng, hai nhóm rủi ro lớn nhất mà nghề nuôi tôm hùm đang đối diện là rủi ro môi trường và rủi ro thiên tai cực đoan.
Về môi trường, mật độ lồng dày khiến chất thải hữu cơ tích tụ, nước trong vịnh dễ bị thiếu oxy, giàu dinh dưỡng, chỉ cần một thay đổi đột ngột về nhiệt độ, độ mặn hay dòng chảy là hệ sinh thái bị “sốc”.
Về thiên tai, các vịnh nuôi tôm lại thường nằm ở nơi chịu tác động trực tiếp của mưa lũ từ thượng nguồn đổ ra biển hoặc gió mạnh, sóng lớn khi có bão.

Thủ phủ nuôi tôm hùm ở phường Sông Cầu (Ảnh: Nam Anh).
“Đợt lũ vừa qua, nước mưa từ núi đổ ra vịnh cùng lúc với lượng nước lũ khổng lồ từ sông, làm độ mặn giảm đột ngột, dòng chảy mạnh, bùn cát đục. Với một loài sống phụ thuộc rất lớn vào ổn định môi trường như tôm hùm, đó là cú sốc chí mạng”, vị chuyên gia phân tích.
Điều đáng nói là những cú sốc như vậy không phải lần đầu. Bão Kalmaegi ngay trước đó từng làm hư hại lồng bè, cuốn trôi một phần sản lượng. Những năm gần đây, nhiều đợt mưa lũ bất thường cũng khiến tôm chết rải rác, nhưng quy mô chưa bao giờ chạm đến mức “95% lồng thiệt hại” như lần này.
“Biến đổi khí hậu khiến tần suất và cường độ các hiện tượng cực đoan tăng lên, nhưng mô hình sản xuất của chúng ta thay đổi rất chậm. Người nuôi vẫn có xu hướng bám trụ chính ở những vịnh, đầm đã quen thuộc, mở rộng thêm lồng khi giá tốt, mà thiếu những kịch bản ứng phó khi nước lũ, áp thấp nhiệt đới, bão ập đến”, TS Dũng nhận xét.
Thiệt hại về tôm hùm không dừng ở chuyện mất một vụ nuôi. Đằng sau những con số vài tỷ, vài chục tỷ là chuỗi nợ đan chéo: vốn vay ngân hàng, tiền thức ăn ứng trước, tiền con giống, tiền công lao động, chi phí sinh hoạt của cả gia đình nhiều thế hệ.
Câu chuyện tôm hùm ở Sông Cầu là lời cảnh tỉnh cho cả hệ thống: từ quy hoạch vùng nuôi, hạ tầng bảo vệ, cơ chế cảnh báo sớm đến chính sách tín dụng, bảo hiểm nông nghiệp.
Nếu ở thủ phủ nuôi tôm hùm, người dân mất hàng tỷ đồng sau một đêm lũ thì trên đồng ruộng, nhiều nông dân trồng rau, hoa, cây ăn quả ở miền Trung và đồng bằng sông Hồng cũng không khá hơn.
PGS.TS Đặng Văn Đông, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Rau quả, chỉ ra rằng, mỗi đợt mưa bão kéo dài chỉ vài ngày cũng đủ xóa sổ cả vùng rau vụ đông, làm dập nát vườn hoa, khiến trái cây rụng trắng vườn.

PGS.TS Đặng Văn Đông, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Rau quả (Ảnh: Minh Nhật).
“Rau ăn lá rất nhạy cảm với ngập úng. Mưa vài ngày, cả cánh đồng dễ dàng trở thành ‘biển nước’, nông dân không thu hoạch kịp, cây hỏng, đất úng kéo dài ảnh hưởng cả vụ sau”, PGS Đông phân tích.
Phần lớn rau quả của chúng ta vẫn đi theo dòng chảy thẳng ruộng - chợ, thiếu các tầng đệm trung gian như kho lạnh, trung tâm logistics vùng. Chỉ cần 3 đến 5 ngày mưa bão, hàng ngoài đồng không thu được, đường vận chuyển bị chia cắt, chợ đầu mối thiếu hàng, giá lập tức “nhảy múa”.
Theo PGS Đông, chuỗi cung ứng rau, hoa, quả hiện nay tồn tại ít nhất 4 mắt xích rất dễ bị tổn thương trước thiên tai: vùng trồng, thu hoạch, bảo quản sau thu hoạch và vận chuyển - phân phối.


“Chỉ cần một mắt xích gặp vấn đề, hiệu ứng lan ra toàn chuỗi. Thiên tai vì thế không chỉ quét qua cánh đồng, mà còn đánh vào túi tiền nông dân và cả người tiêu dùng thành thị qua mỗi rổ rau, cân quả”, PGS Đông nói.
Nhìn từ vịnh tôm hùm ở Sông Cầu đến những cánh đồng rau, có thể thấy một mẫu số chung: Nông nghiệp Việt Nam vẫn đặt cược quá nhiều vào sự “hiền hòa” của thời tiết, trong khi thiên tai thì ngày càng cực đoan và khó lường.
Mẫu số chung của một nền nông nghiệp dễ tổn thương
Từ câu chuyện tôm hùm mất trắng đến chuyện rau “tăng bằng lần” sau bão, TS Lê Việt Dũng và PGS.TS Đặng Văn Đông đều gặp nhau ở một nhận định: điểm yếu cốt lõi của nông nghiệp Việt Nam hiện nay là tính chống chịu thấp, cả ở không gian sản xuất lẫn trong chuỗi giá trị.
Một là sự tập trung quá lớn vào những vùng “lõi” nhạy cảm với thiên tai.

Nhiều lĩnh vực nuôi trồng có sự tập trung quá lớn vào các vùng lõi (Ảnh: Nam Anh).
Tôm hùm dồn vào vài vịnh, đầm biển nơi vừa chịu sóng gió, vừa chịu nước lũ từ thượng nguồn.
Rau hoa tập trung ở các vùng đồng bằng thấp, vùng ven sông, nơi bão lũ, triều cường dễ gây ngập sâu, úng lâu. Khi một sự cố xảy ra ở những vùng này, tác động lan rộng rất nhanh, vì những “vùng đệm” và “vùng thay thế” vẫn còn yếu.
Hai là hạ tầng bảo vệ sản xuất còn mỏng.
Đối với tôm hùm, đó là thiếu các khu neo đậu an toàn, thiếu phương án di dời lồng bè khi có dự báo mưa lũ lớn, thiếu hệ thống phao, neo, kết cấu lồng đủ vững chãi trước dòng chảy mạnh.
Đối với trồng trọt, đó là thiếu hệ thống đê bao nhỏ, cống tiêu nội đồng, hồ điều hòa, nhà lưới, mái che mưa cho rau hoa, thiếu kho lạnh và trung tâm sơ chế gần vùng nguyên liệu.
Ba là chuỗi giá trị thiếu những “tầng đệm” để hấp thu cú sốc.


Người nuôi tôm thường vay vốn lớn, nhưng bảo hiểm nông nghiệp còn rất hạn chế, các gói tín dụng ưu đãi sau thiên tai chưa đủ sâu và nhanh.
Nông dân trồng rau hoa bán chủ yếu qua thương lái và chợ đầu mối, ít hợp đồng dài hạn với doanh nghiệp. Khi thiên tai xảy ra, gần như không có cơ chế chia sẻ rủi ro, nên người sản xuất là bên chịu tổn thương trực tiếp nhất.
Bốn là dữ liệu và cảnh báo sớm chưa thực sự “chạm” tới người dân.
Cả hai lĩnh vực nuôi trồng thủy sản và trồng trọt đều phụ thuộc mạnh vào dự báo mưa, lũ, gió, triều.
Theo TS Dũng, quan trắc và cảnh báo trong thủy sản vẫn còn đang rất yếu. Một phần do các khu nuôi nằm ở rải rác nhiều nơi nên việc dự báo thời tiết ở chính xác một khu vực nhất định trở nên khó khăn.
Giải quyết được vấn đề này sẽ giúp người nuôi ứng phó kịp thời với các cơn mưa giông bất chợt, nắng nóng kéo dài, các hình thái mưa không có lợi với vật nuôi thủy sản.
Vẽ lại bản đồ nông nghiệp để không còn những giọt nước mắt sau bão lũ
Ở tầm ngắn hạn, cả TS Lê Việt Dũng và PGS.TS Đặng Văn Đông đều nhấn mạnh rằng, không thể coi một trận lũ lớn là chuyện “xong rồi để đó”.
Với người nuôi tôm hùm, ưu tiên đầu tiên là cứu người, sau đó là hỗ trợ họ đứng dậy. Giãn nợ, khoanh nợ, xem xét xóa một phần nợ với những trường hợp thiệt hại quá nặng, đồng thời tạo điều kiện cho vay lại với lãi suất phù hợp để người dân có thể tái sản xuất.

Cần nhiều chính sách hỗ trợ để khôi phục sản xuất sau bão lũ (Ảnh: Ngô Linh).
Song song, cần hỗ trợ hóa chất, vật tư để xử lý môi trường sau khi tôm chết hàng loạt, tránh ô nhiễm dây chuyền.
Với nông dân trồng rau, hoa, cây ăn quả, hỗ trợ giống, vật tư, khôi phục hạ tầng nội đồng, hệ thống mương, trạm bơm nhỏ, kho tạm bảo quản… là những việc phải làm ngay. Nếu không, họ rất dễ bỏ ruộng, bỏ vườn, chuyển sang nghề khác vì không còn đủ sức gượng dậy.
Tuy nhiên, những biện pháp “cấp cứu” này chỉ giúp giảm bớt hậu quả trước mắt. Điều quan trọng hơn là phải coi mỗi trận lũ là một “bài học dữ liệu”.
Với thủy sản, cần ghi lại chi tiết mực nước, thời điểm nước lũ đổ về, độ mặn thay đổi ra sao, khu vực nào thiệt hại nặng nhất, loại lồng nào chịu đựng tốt hơn, khu nuôi nào an toàn tương đối hơn. Với trồng trọt, phải cập nhật bản đồ ngập sâu, thời gian ngập, diện tích thiệt hại, loại cây nào chịu úng tốt hơn, vùng nào cần điều chỉnh quy hoạch.
Những dữ liệu này, nếu được số hóa và phân tích, sẽ trở thành nền tảng để điều chỉnh quy hoạch vùng nuôi, vùng trồng, thiết kế lại lịch mùa vụ, xây dựng các kịch bản ứng phó chi tiết hơn cho từng lưu vực, từng tiểu vùng khí hậu.
Ở tầm trung và dài hạn, hai vị chuyên gia đều cho rằng chiến lược phát triển nông nghiệp Việt Nam không thể tiếp tục đi theo hướng “được mùa thì mở rộng, mất mùa thì thu hẹp”, mà phải được dẫn dắt bởi bản đồ rủi ro thiên tai.
Với nuôi trồng thủy sản, điều này bắt đầu từ việc rà soát lại quy hoạch vùng nuôi ven biển và trên biển. Những khu vực nằm trực tiếp trên đường đi của lũ từ sông ra biển, như một số đoạn vịnh nối liền với cửa sông, cần được giới hạn mật độ lồng, thậm chí chuyển dần sang đối tượng nuôi khác hoặc mô hình nuôi ít rủi ro hơn.
Song song, có thể phát triển các vùng nuôi “đệm” ở những khu vực ít chịu ảnh hưởng trực tiếp của dòng lũ từ sông, kết hợp mô hình nuôi lồng xa bờ, nuôi công nghệ cao trong bể trên bờ với mật độ và quy mô phù hợp.
“Năm 2024 bão Yagi xóa sổ toàn bộ ngành sản xuất hàu ở Quảng Ninh. Năm nay chỉ trong tháng 11, hết bão số 13 rồi tiếp đến mưa lớn, đã xóa xổ toàn bộ ngành sản xuất tôm hùm ở Phú Yên (cũ).
Vì vậy, chúng ta cần xem xét đến một quy hoạch mới cho các vùng này, đặc biệt là cho 2 ngành nuôi tôm hùm và hàu, đây là hai ngành nuôi trên biển, chứ không phải ven biển.
Đối với ngành hàu, tỉnh Quảng Ninh đã phê duyệt đề án quy hoạch mới. Tôi cho rằng các vùng quy hoạch đều đã đảm bảo giảm thiểu rủi ro về bão nhất.
Đối với ngành tôm hùm, cá nhân tôi không có cao kiến gì về thay đổi quy hoạch đối phó với thiên tai như lũ vì vịnh Xuân Đài nối trực tiếp với sông. Tôi thiên về các giải pháp kỹ thuật để đối phó với thiên tai”, TS Dũng phân tích.
Cụ thể, theo TS Dũng, về mặt kỹ thuật, kế hoạch di dời khi có mưa lớn hay bão để hạn chế thiệt hại là rất cần thiết và có lẽ là tốt nhất vì người nuôi thủy sản đã xác định vị trí nuôi và quy trình kỹ thuật hiệu quả.
Tuy nhiên, các phương án này chỉ phát huy tác dụng khi có được sự cảnh báo sớm của chính quyền địa phương.
Ví dụ, với tôm hùm, chúng ta có thể gây mê và di dời tôm hùm lên các tàu lớn, đưa tới các khu vực không bị ảnh hưởng bởi lũ.
Việc này nghe có vẻ bất khả thi nhưng thực tế tôm hùm được vận chuyển sống theo hình thức khô đi khắp cả nước và thế giới.
“Ở Trung Quốc, người nuôi bào ngư vận chuyển bào ngư từ tỉnh Phúc Kiến sang tỉnh Sơn Đông vào tháng 4 khi mùa hè nhiệt độ nước quá cao, rồi đem trở lại tỉnh Phúc Kiến vào mùa đông, tháng 11.
Đáng chú ý hơn 50.000 tấn bào ngư được thực hiện như vậy, nên 4000 tấn tôm hùm của Đắk Lắk cũng có thể được cứu nếu có phương án trước”, TS Dũng nêu dẫn chứng.
Với trồng trọt, PGS Đông đề xuất quy hoạch lại vùng trồng theo bản đồ rủi ro lũ, ngập, hạn, xâm nhập mặn.
Các vùng rau vụ đông, hoa, cây ăn quả không nên quá tập trung vào những “điểm nóng” thiên tai, mà cần có mạng lưới vùng sản xuất bổ trợ ở các tiểu vùng khí hậu khác nhau. Khi một vùng chịu ảnh hưởng thiên tai, vùng khác lập tức có thể tăng sản lượng gánh đỡ.
Cùng với đó, mỗi vùng trọng điểm, dù là vịnh nuôi tôm hay cánh đồng rau, đều cần được thiết kế lại với tư duy coi thiên tai là điều chắc chắn xảy ra, không phải ngoại lệ hiếm hoi.
Nếu tái cấu trúc không gian là “điểm tựa” thì công nghệ chính là lớp áo giáp mới cho nông nghiệp trước bão lũ.
Trong nuôi tôm hùm, công nghệ không chỉ là những lồng nuôi bằng vật liệu mới hay hệ thống cho ăn tự động. Đó còn là cảm biến đo độ mặn, nhiệt độ, chất lượng nước đặt ngay tại vịnh, kết nối với hệ thống dự báo thời tiết để gửi cảnh báo sớm tới từng hộ nuôi.
Khi có dấu hiệu mưa lớn, lũ về, độ mặn giảm nhanh, người nuôi có thể chủ động điều chỉnh cho ăn, giảm mật độ, thậm chí thu hoạch sớm một phần.
Trong trồng trọt, công nghệ nhà kính, nhà màng, hệ thống tưới - dinh dưỡng thông minh, giống cây chịu hạn, chịu úng, chịu mặn… là lớp bảo vệ quan trọng.
Công nghệ sau thu hoạch, từ kho lạnh, sơ chế, đóng gói đến logistics lạnh, giúp kéo dài thời gian lưu trữ, tạo “bể chứa” để thị trường không bị rơi vào cảnh thiếu hàng đột ngột sau vài ngày mưa bão.
























