Giáo dục đại học Việt Nam gặp khó trong "đầu ra" do đâu?
(Dân trí) - Tại báo cáo tháng 8/2022 của World Bank (Ngân hàng Thế giới), các chuyên gia đã chỉ ra một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả đầu ra của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam.
Giáo dục đại học chưa đạt nhiều thành công
Theo báo cáo của World Bank, Việt Nam đạt được kết quả tốt trong việc cung cấp giáo dục phổ thông có chất lượng cho người dân, nhưng chưa đạt được nhiều thành công trong giáo dục sau phổ thông.
Số năm đi học bình quân của Việt Nam là 10.2 năm, chỉ đứng sau Singapore trong khối ASEAN và chỉ số vốn nhân lực đạt 0.69/1, cao nhất trong số các nền kinh tế thu nhập trung bình thấp.
Tuy nhiên, tỷ lệ nhập học giáo dục sau phổ thông của Việt Nam năm 2019 chỉ đạt 28.6%. Con số này thấp hơn so với các quốc gia trong khu vực và so với tỷ lệ nhập học bình quân 55.1% ở các quốc gia thu nhập trung bình cao.
Điều này cho thấy, trong số khoảng 6.9 triệu trẻ em thuộc độ tuổi đi học các chương trình sau phổ thông, chỉ có khoảng hơn 2 triệu em nhập học. Để đạt tỷ lệ nhập học bằng các quốc gia thu nhập trung bình cao trong dài hạn, Việt Nam cần tạo điều kiện cho khoảng 3.8 triệu học sinh nhập học, gần gấp đôi con số năm 2019.
Các chuyên gia World Bank nhận định, chênh lệch về kết quả đạt được của Việt Nam so với các quốc gia khác cũng như so với chính mục tiêu đã đặt ra phần nào do chênh lệch trong khả năng tiếp cận giáo dục đại học.
Tính đến năm 2020, chỉ có 7.3% học sinh từ các hộ gia đình thuộc nhóm có thu nhập thấp nhất được tiếp cận giáo dục đại học, so với tỷ lệ 49.8% học sinh từ các hộ gia đình thuộc nhóm có thu nhập cao nhất. Thanh thiếu niên đồng bào các dân tộc thiểu số có tỷ lệ tiếp cận giáo dục giáo dục đại học bằng 6%, thấp hơn rất nhiều so với tỷ lệ 35,4% của nhóm dân tộc đa số.
Tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông và tỷ lệ trúng tuyển không bằng nhau cũng ảnh hưởng đến tỷ lệ tiếp cận giáo dục đại học.
Những yếu tố ảnh hưởng đến kết quả đầu ra của giáo dục đại học Việt Nam
Theo nghiên cứu của các chuyên gia World Bank, nhìn trên góc độ cầu, những yếu tố cản trở mong muốn theo đuổi giáo dục đại học bao gồm chi phí cơ hội của việc học tập, suất sinh lợi từ giáo dục giảm dần và gánh nặng chi phí tài chính gia tăng đối với các hộ gia đình.
Cụ thể, học đại học đồng nghĩa với việc phải trì hoãn tham gia các hoạt động tạo thu nhập trong một số năm và đó là chi phí cơ hội lớn đối với sinh viên.
Bên cạnh đó, dù thu nhập của một tân cử nhân 25-35 tuổi cao hơn 3 lần so với thu nhập của lao động không có bằng cấp, nhưng chỉ số suất sinh lợi tương quan tính trên lương của lao động chuyên nghiệp có trình độ, kỹ năng đã và đang suy giảm trong giai đoạn 2010-2020.
Chỉ số suất sinh lợi được đo bằng sự thay đổi về mức lương theo giờ của người lao động có trình độ sau phổ thông so với các nhóm có trình độ dưới tiểu học. Con số này giảm từ 70% trong năm 2010 xuống 50% trong năm 2020.
Các chuyên gia World Bank cho rằng điều này một phần do sự phù hợp về kỹ năng của sinh viên tốt nghiệp đại học trên thị trường lao động còn chưa cao.
Hiện Việt Nam xếp thứ 3 từ dưới lên trong số 140 quốc gia được đánh giá trong Chỉ số năng lực cạnh tranh năm 2018 về sự phù hợp về kỹ năng của sinh viên tốt nghiệp. Lý do có thể vì nền kinh tế chưa tạo đủ việc làm đòi hỏi kỹ năng cao, vì vậy một số sinh viên tốt, kỹ năng cao phải nhận những công việc có kỹ năng thấp hơn và thù lao thấp hơn.
Ngoài ra, học phí và tổng chi phí theo học đại học nói chung đã tăng hơn gấp 2 lần trong thời gian qua, trong khi đóng góp của hộ gia đình cho việc theo học đại học hiện trở thành nguồn đóng góp chính về học phí của sinh viên. Học phí mà các hộ gia đình phải nộp bình quân chiếm trên 65% nguồn thu của các cơ sở giáo dục đại học và chiếm từ 43 - 60% tổng chi tiêu cho mỗi sinh viên.
Nhìn trên góc độ cung, những yếu tố ảnh hưởng đến đầu ra và kết quả của giáo dục đại học bao gồm chênh lệch cung cầu kỹ năng, thiếu vốn và cơ cấu thể chế bị phân mảnh.
Theo đó, kỹ năng của nhiều sinh viên tốt nghiệp còn chưa phù hợp với nhu cầu thị trường. Các doanh nghiệp cho biết họ gặp khó khăn trong việc tìm kiếm lao động có kỹ năng lãnh đạo và quản lý (73%) hoặc kỹ năng chuyên môn kỹ thuật (68%).
Bên cạnh đó, Việt Nam chi thấp hơn các quốc gia khác trong khu vực cho giáo dục đại học. Trong năm 2019, Việt Nam phân bổ 0.6% GDP cho giáo dục đại học, cao đẳng và dạy nghề. Con số này thấp hơn so với các quốc gia khác như Malaysia (0.86%) hay Hàn Quốc (0.9%).
Ngoài ra, hiện chưa có một cơ quan quản lý tập trung và thống nhất toàn bộ hệ thống giáo dục đại học và nghiên cứu; khung pháp lý còn phức tạp, manh mún và thiếu đồng bộ; sự gắn kết giữa các trường đại học và các đơn vị nghiên cứu còn yếu; công tác đảm bảo chất lượng cần cải thiện.
4 giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đại học ở Việt Nam
Các chuyên gia World Bank cho rằng, hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam cần những đổi mới mang tính hệ thống nhằm nâng cao chất lượng trên một số mặt.
Thứ nhất, nâng cao khả năng tiếp cận và công bằng. Giả sử mục tiêu về tỷ lệ nhập học giáo dục sau phổ thông của Việt Nam đến năm 2030 là 45%, chỉ tiêu tuyển sinh bổ sung ước tính phải là 1.3 triệu mới đạt được tổng số 3.8 triệu sinh viên.
Để có thể mở rộng quy mô như vậy, nhu cầu đặt ra là đảm bảo các cơ sở giáo dục tư nhân và ngoài đại học đóng vai trò lớn hơn; mô hình đào tạo đa dạng hơn, trong đó có hình thức học tập trực tuyến và ứng dụng công nghệ số; tăng cường nguồn tuyển sinh ngay từ bậc giáo dục trung học và có hỗ trợ tài chính cho sinh viên.
Thứ hai, cải thiện chất lượng và sự phù hợp. Để cải thiện chất lượng, trọng tâm cần đặt vào đổi mới phương pháp dạy và học, quản lý tốt đội ngũ nghiên cứu và giảng dạy tài năng, đầu tư cho cơ sở hạ tầng giáo dục và công nghệ thông tin, truyền thông. Để cải thiện sự phù hợp của các chương trình giáo dục đại học, cần xây dựng liên kết chặt chẽ hơn giữa các cơ sở giáo dục đại học với các doanh nghiệp.
Thứ ba, cải thiện về đảm bảo tài chính cho lĩnh vực giáo dục đại học. Giáo dục đại học cần chuyển sang hướng đảm bảo tài chính bền vững thông qua phân bổ tốt hơn nguồn vốn của Nhà nước và sử dụng hiệu quả hơn nguồn vốn của khu vực tư nhân. Ưu tiên trước mắt là đảm bảo nguồn lực hiện có phải được sử dụng hiệu quả.
Dần dần, nguồn vốn của Nhà nước dành cho giáo dục sau phổ thông cần được tăng thêm, nhất là khi nhu cầu giáo dục đại học tiếp tục tăng thêm. Tuy nhiên, vì Nhà nước cung cấp khoảng 80% các chương trình giáo dục sau phổ thông, vai trò của các cơ sở giáo dục dân lập bậc sau phổ thông vẫn cần được nâng cao hơn nữa.
Thứ tư, cải thiện về quản trị trong lĩnh vực giáo dục đại học. Theo nhóm chuyên gia, Chính phủ nên xem xét sắp xếp lại cơ cấu quản lý lĩnh vực giáo dục đại học để tạo điều kiện phát triển và cải thiện chất lượng.
Phải xác định tầm nhìn và chiến lược cho giáo dục đại học, sửa đổi cấu trúc ngành và khung pháp quy, kết hợp với các biện pháp đảm bảo chất lượng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các trường đại học hoạt động theo hướng tự chủ và tự đảm bảo trách nhiệm giải trình trong một cấu trúc quản trị hiệu quả hơn.
Bên cạnh đó, giao cho một bộ duy nhất phụ trách công tác quản lý Nhà nước đối với các trường đại học, trường kỹ thuật và dạy nghề. Các cấp có thẩm quyền cần chủ động theo dõi tiến độ và kết quả đầu ra của chương trình cải cách này thông qua hệ thống quản lý thông tin hiện đại.