Đề xuất đến năm 2030, học sinh cả nước sẽ được miễn phí sách giáo khoa
(Dân trí) - Dự thảo Nghị quyết đặc thù về giáo dục đề xuất đến năm 2030 hoàn thành việc miễn phí sách giáo khoa cho toàn bộ học sinh phổ thông, nhằm bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục.
Sáng 17/11, thay mặt Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh trình bày tờ trình dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội để thực hiện đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.
Hướng tới miễn phí sách giáo khoa cho toàn bộ học sinh
Một trong những nội dung quan trọng của dự thảo Nghị quyết đặc thù là cơ chế về chương trình và sách giáo khoa. Dự thảo đề xuất giao Bộ Giáo dục và Đào tạo thẩm quyền quyết định sử dụng một bộ sách giáo khoa thống nhất trên toàn quốc.
Theo Chính phủ, quy định này nhằm bảo đảm tính thống nhất, ổn định, tránh tình trạng chênh lệch về chất lượng giữa các địa phương, đồng thời giảm chi phí xã hội phát sinh từ việc tồn tại nhiều bộ sách khác nhau.
Đây cũng là giải pháp để bảo đảm kỷ cương trong biên soạn, phê duyệt và tổ chức sử dụng sách giáo khoa, phù hợp định hướng hoàn thiện hệ thống giáo dục theo tinh thần Nghị quyết 71-NQ/TW.

Bộ trưởng Nguyễn Hải Ninh trình bày tờ trình trước Quốc hội (Ảnh: Media QH).
Dự thảo còn đề xuất miễn phí sách giáo khoa cho học sinh cơ sở giáo dục phổ thông, hoàn thành vào năm 2030; đồng thời miễn học phí, giáo trình môn giáo dục quốc phòng và an ninh đối với người học tại cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. Đây được xem là biện pháp nhằm bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục, nhất là đối với học sinh vùng khó khăn.
Trình bày báo cáo thẩm tra của Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa - Xã hội Nguyễn Đắc Vinh cho biết, Ủy ban tán thành chủ trương về sách giáo khoa nhưng lưu ý một số vấn đề cần được làm rõ.
Trước hết, Ủy ban đề nghị chỉnh lý cách diễn đạt liên quan đến việc địa phương "có điều kiện" được thực hiện miễn phí trước, nhằm tránh hiểu sai rằng những địa phương khá giả được ưu tiên. Theo Ủy ban, việc miễn sách giáo khoa cần gắn với cơ chế hỗ trợ các vùng khó khăn để bảo đảm đúng mục tiêu chính sách.
Bên cạnh đó, Ủy ban đề nghị quy định rõ hình thức hợp tác, cơ chế và tiêu chí đánh giá hiệu quả hợp tác trong phát triển chương trình giáo dục, vì đây là nội dung có tác động trực tiếp đến chất lượng dạy và học. Những lưu ý này được cho là cần thiết để bảo đảm tính khả thi, đồng thời tránh trùng lặp hoặc mâu thuẫn với các luật liên quan đang được Quốc hội xem xét sửa đổi.
Đột phá nâng cao chất lượng nhân lực giáo dục
Theo Bộ trưởng Nguyễn Hải Ninh, Chính phủ xác định nhân lực ngành giáo dục là một trong những nút thắt lớn nhất, cần cơ chế đặc thù để tháo gỡ ngay.
Sau hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết 29, hệ thống giáo dục tuy đạt nhiều kết quả nhưng đối mặt tình trạng thiếu trên 100.000 giáo viên, chất lượng tuyển dụng và điều phối nhân sự không đồng đều, chênh lệch giữa các địa phương ngày càng rõ. Vì vậy, Chính phủ coi việc hoàn thiện cơ chế nhân lực là yêu cầu cấp thiết để thực hiện các mục tiêu đột phá theo Nghị quyết 71.
Điều 2 của dự thảo Nghị quyết giao Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo thẩm quyền tuyển dụng, điều động, thuyên chuyển giáo viên, thay vì để cơ chế phân tán như hiện nay. Lập luận của Chính phủ là việc phân cấp hiện hành đã dẫn đến "phân mảnh trong quản lý đội ngũ", xuất hiện tình trạng thừa - thiếu cục bộ và khó khăn trong bố trí, sử dụng nhân lực phù hợp nhu cầu thực tế.
Tờ trình cho biết một số địa phương đã giao Sở GD&ĐT tổ chức tuyển dụng giáo viên và "bước đầu mang lại kết quả tích cực", cụ thể là rút ngắn quy trình tuyển dụng và nâng cao chất lượng ứng viên.
Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa - Xã hội cho biết Ủy ban tán thành hướng phân cấp này nhưng đề nghị quy định rõ phạm vi áp dụng "trong cùng một tỉnh" để tránh hiểu sai. Ủy ban đồng thời lưu ý cần có cơ chế giám sát, kiểm tra, báo cáo định kỳ, bảo đảm minh bạch và ngăn ngừa tiêu cực khi mở rộng thẩm quyền tuyển dụng.

Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa - Xã hội Nguyễn Đắc Vinh (Ảnh: Media QH).
Cùng với phân cấp, dự thảo còn đề xuất cơ chế phối hợp và chia sẻ nhân lực, cho phép luân chuyển giáo viên, kết nối nhân sự giữa các cơ sở giáo dục và cơ quan nghiên cứu để giải quyết tình trạng mất cân đối cơ cấu môn học và thiếu nhân lực ở một số cấp học.
Tuy nhiên, Ủy ban thẩm tra đề nghị làm rõ sự khác biệt với các khái niệm "đồng cơ hữu" hay "giảng dạy liên trường" trong các dự án luật liên quan để tránh trùng lặp hoặc chồng chéo.
Dự thảo cũng bổ sung cơ chế thu hút nhân tài, cho phép cơ sở giáo dục đại học và nghề nghiệp ký hợp đồng theo thỏa thuận với chuyên gia có trình độ tiến sĩ, bao gồm người nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài.
Đây là nhóm chính sách được đánh giá có tác động lớn, nên Ủy ban thẩm tra đề nghị làm rõ nguồn tài chính chi trả, phạm vi ngành nghề được phép tuyển dụng và việc kéo dài thời hạn xác nhận miễn giấy phép lao động lên tối đa 3 năm.
Tăng đầu tư và mở rộng tự chủ trong hệ thống giáo dục
Bên cạnh chính sách về nhân lực và sách giáo khoa, dự thảo Nghị quyết đặc thù còn đề xuất nhiều cơ chế nhằm tạo sự đồng bộ trong toàn hệ thống giáo dục.
Một nhóm chính sách quan trọng là đẩy mạnh chuyển đổi số, xây dựng nền tảng giáo dục thông minh và cơ sở dữ liệu quốc gia, tạo điều kiện để các cơ sở giáo dục tăng cường ứng dụng công nghệ trong quản lý, giảng dạy và đánh giá. Dự thảo cũng mở rộng quyền chủ động của các trường trong hợp tác và hội nhập quốc tế, bao gồm việc tổ chức hội nghị, hội thảo khoa học với quy trình thuận lợi hơn.
Ở lĩnh vực tài chính - đầu tư, dự thảo đề xuất áp dụng một số thủ tục đầu tư công theo cơ chế rút gọn để đẩy nhanh tiến độ. Đặc biệt, dự thảo còn đề xuất ưu đãi về đất đai, thuế và tín dụng cho cơ sở giáo dục công lập và cơ sở không vì lợi nhuận, nhằm huy động và tăng nguồn lực xã hội hóa cho giáo dục.
Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Văn hóa và Xã hội cơ bản tán thành các cơ chế này, nhưng đề nghị Chính phủ hướng dẫn rõ tiêu chí, thủ tục và bảo đảm tính minh bạch trong quá trình triển khai, đặc biệt là các quy định về ưu đãi đầu tư, nhằm tránh chồng chéo với các luật chuyên ngành khác và bảo đảm chính sách được thực hiện hiệu quả.











