Đại học tư thục Việt Nam: Vì sao bùng nhùng?
Chính bức tranh "mù mờ" - ĐH "tư thục" hiện nay đã khiến các nhóm lợi ích mặc sức mua bán, sáp nhập, thôn tính, đấu đá và tranh giành lẫn nhau, dẫn đến hậu quả sinh viên là người lãnh đủ!
Cái gọi là Cuộc chiến pháp lý trong các trường ĐH tư thục mà báo VietNamNet ngày 09/7 nêu lên đã tồn tại khá lâu, từ khoảng hơn 10 năm qua chứ không phải đến bây giờ mới nảy sinh. Đã có khá nhiều bài viết và ý kiến phản biện của các chuyên gia, nhà giáo, và các nhà quản lý GDĐH về vấn đề này trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nhưng cuối cùng đâu lại vào đấy vì ít khi những ý kiến trên được... lắng nghe và tiếp thu.
Quy định, nhưng chỉ mang tính... hình thức
Lần ngược về những năm 1990, do yêu cầu xã hội hóa GD, các trường ĐH ngoài công lập được hình thành. Tuy nhiên, do "dị ứng" với thuật ngữ "tư thục" nên khái niệm "dân lập" và mô hình trường ĐH dân lập được thay thế.
Theo tác giả Minh Nhật[1] "theo quy chế 86/2000/QĐ-TTg của TTCP, trường ĐH dân lập phải do một tổ chức đứng ra thành lập. Nhưng quy định này chỉ mang tính ...hình thức, bởi trên thực tế, không có tổ chức nào bỏ vốn đầu tư".
Mà vốn là do các cá nhân bỏ ra, trong khi quyền sở hữu tài sản lại xác định: "Tài sản của trường ĐH dân lập sau khi trừ phần vốn góp của tập thể, cá nhân và phần chi phí cho các hoạt động của trường kể cả phần trả lãi vốn vay, vốn góp là tài sản không chia thuộc sở hữu tập thể nhà trường" (điều 36).
Sự không tường minh về sở hữu tài sản cộng với khái niệm có tính... "nửa dơi, nửa chuột" (Luật GD không có mô hình trường dân lập) nên vào ngày 26/5/2006 Phó TT Phạm Gia Khiêm đã ký QĐ 122/QĐ-TTg cho phép 19 trường ĐH dân lập chuyển sang tư thục.
Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi đã phát sinh 2 vấn đề nổi cộm là hình thức sở hữu và quyền lãnh đạo nhà trường.
Về hình thức sở hữu, "với việc xác định tài sản thuộc "sở hữu tập thể" nên phần lớn tài sản của các trường ĐH dân lập sẽ là thuộc "sở hữu tập thể", vì vốn góp của các cá nhân ban đầu là không đáng kể so với giá trị tài sản hiện có.
Nhưng khi chuyển sang mô hình trường tư thục (tài sản thuộc "sở hữu tư nhân") theo Quy chế 61/2009/QĐ-TTg ngày 17/4/2009 của TTCP, khối tài sản "sở hữu tập thể" ấy sẽ thuộc "sở hữu chung của toàn trường". Điều này khiến người ta nghĩ rằng khối tài sản "sở hữu tập thể" đã bị đem "biếu không" cho trường tư.
Trong quá trình chuyển đổi, người ta lại cố tình "hạ giá" khối tài sản này và không tính đến giá thương hiệu của trường ĐH, với mục đích được mua (hoặc "thôn tính") trường với giá rẻ nhất có thể...
Tất cả đã làm cho tiến trình chuyển đổi hầu như giẫm chân tại chỗ.
Về quyền lãnh đạo nhà trường cũng phức tạp không kém. Linh hồn của 1 trường ĐH chính là đội ngũ các nhà giáo dục và khoa học của trường đó. Ấy vậy mà trong quy chế về trường ĐH tư thục, người ta chỉ thấy nói đến quyền lực của người có tiền. Tiền càng nhiều thì quyền càng cao, mà không thấy được vị trí của các nhà khoa học, giáo dục.
Để kết luận, tác giả cho rằng "từ 2 bất cập vừa nêu đã kéo theo sự bất phục, chống đối, thậm chí là lôi kéo thành phe nhóm chống đối lẫn nhau giữa những người đang lãnh đạo nhà trường và các nhà đầu tư". Sự rắc rối của các trường ĐH "tư thục" gần đây mà dư luận và báo chí nêu lên là hệ quả bất cập của những chính sách về ĐH "dân lập" và "tư thục".
Mấu chốt của những mâu thuẫn
Thật vậy, có thể thấy chính sách 'xã hội hóa' đã hình thành nên khung đầu tư tư nhân trong hoạt động GD ở Việt Nam. Chính sách này khuyến khích các tổ chức và các cá nhân tham gia phát triển hệ thống GD bằng cách đóng góp chi phí GD của toàn hệ thống.
Ban đầu, "các cơ sở GDĐH dân lập" đã tạo ra một sân chơi khá sòng phẳng. Tuy nhiên, theo thời gian, câu hỏi giải quyết vấn đề lợi nhuận như thế nào càng trở nên rắc rối cũng như câu hỏi làm thế nào để khuyến khích cho việc mở rộng khối tư nhân.
Về các cơ sở GDĐH tư thục, Luật GD năm 2005 qui định "tài sản, tài chính của trường tư thục thuộc sở hữu của các thành viên góp vốn" (điều 67). QĐ số 14/2005/QĐ-TTg ngày 17/01/2005 qui định "toàn bộ tài sản của trường thuộc sở hữu của các nhà đầu tư" (điều 35, khoản 5).
Trong QĐ số 61/2009/QĐ-TTg ngày 17/4/2009 và sau đó là QĐ số 63/2011/QĐ-TTg ngày 10/11/2011, các cơ sở GDĐH tư thục đã được trao tư cách pháp nhân, chức năng nhiệm vụ, nghĩa vụ và quyền lợi tương tự như các trường ĐH công lập.
Bên cạnh đó, quyết định này cũng làm rõ, các trường được phép chia lợi nhuận cho các cổ đông theo tỷ lệ vốn góp, với điều kiện là hoàn thành các nghĩa vụ về thuế và phí theo quy định của Nhà nước và các khoản phân bổ cần thiết được Hội đồng quản trị thông qua và có tổ chức họp hội đồng cổ đông.
Điều này cũng đồng nghĩa với việc các cơ sở GDĐH tư được công nhận như các các công ty[2].
Có thể nói mấu chốt của những rắc rối, phúc tạp, bùng nhùng và mâu thuẫn nằm ở đây.
Trong NQ số 5/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005, Chính phủ đã cam kết "Nhà nước khuyến khích sự phát triển các loại hình phi lợi nhuận" và văn bản cũng định nghĩa cơ chế phi lợi nhuận là cơ chế mà "lợi nhuận phần lớn được sử dụng cho đầu tư phát triển".
Tuy nhiên, định nghĩa này chưa xác định và phân biệt giữa các cơ sở GDĐH tư thục "vì lợi nhuận" và "không vì lợi nhuận" cũng như chưa có cơ chế ràng buộc lợi nhuận thu được, nên đã tạo nên một bức tranh mờ ảo để các nhà đầu tư và nhóm lợi ích mặc sức trục lợi.
Về vấn đề này, GS Phạm Phụ, Trường ĐH Bách Khoa TP.HCM cho biết: "Hiện nay, ở phía Nam, người ta bán trường rất nhiều, giống như bán công ty".
Chính bức tranh "mù mờ"- ĐH "tư thục" hiện nay đã khiến các nhóm lợi ích mặc sức mua bán, sáp nhập, thôn tính, đấu đá và tranh giành lẫn nhau, dẫn đến hậu quả sinh viên là người lãnh đủ!
Hãy nghe Gs. Phạm Phụ nhận xét thêm: "Một lớp cơ khí, 300 sinh viên cùng ngồi nhìn một chi tiết thì làm sao học được cái gì. Thầy thì thuê, mâu thuẫn nội bộ triền miên. Cuối cùng, bao thiệt hại dồn hết lên đầu sinh viên, chất lượng sinh viên ngày càng lao dốc.
Nhà đầu tư chỉ luôn nghĩ làm thế nào để thu được nhiều tiền từ đồng vốn bỏ ra chứ họ không nghĩ làm thế nào để nâng cao chất lượng GD"[3].
Hay: "Hiện nay có 2 lĩnh vực siêu lợi nhuận nhất ở Việt Nam là...mở trường tư và xây chùa".
Nhìn ra xứ người
Về qui mô phát triển của khối tư thục, theo QĐ 121/2007/QĐ-TTg, khu vực GDĐH tư thục sẽ chiếm 40% tổng số sinh viên đến năm 2020. Nhưng khả năng hệ thống tư thục sẽ không thể mở rộng nhanh để đạt được mục tiêu này vì một số lý do như chất lượng kém, học phí cao, mâu thuẫn nội bộ, không nhận được tài trợ của Nhà nước.
Ở Hàn Quốc, số sinh viên theo học khối tư thục là rất cao, chiếm 80,08% trong khi ở Nhật là 79,91% và Mỹ là 25,54%[4]. Theo nghiên cứu và đánh giá của các tạp chí giáo dục hàng đầu của Mỹ[5], trong tốp 10 trường ĐH hàng đầu của Mỹ thì có 8 trường là ĐH tư thục:
1. Harvard University
2. Princeton University
3. Yale University
4. Columbia University
5. California Institute of Technology
6. MIT
7. Stanford University
8. Duke University
Điều này cho thấy vai trò ngày càng quan trọng của ĐH tư thục trong việc đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao ở các quốc gia phát triển. Mặc dù là trường tư, nhưng các cơ sở này vẫn được Nhà nước tài trợ, sinh viên được vay vốn để trang trải chi phí học tập theo nguyên tắc học phí cao - tài trợ cao (high tuition fee- high aid).
Chẳng hạn như Trường ĐH Waseda nổi tiếng của Nhật, năm 2011 nhận được 14,4% ngân sách tài trợ từ nước Nhật trong khi thu nhập từ các hoạt động khác như dịch vụ, lệ phí, hiến tặng... là 18,6% và học phí là 67%.
Có thể thấy phần lớn kinh phí hoạt động là từ học phí nhưng trong phần chi tiêu của trường này không hề có khoản nào dùng để "chia lời" mà chỉ có các khoản như chi cho nhân sự/ lương bổng là 56,1%. Chi cho GD và nghiên cứu là 39,3%. Chi cho duy tu bảo dưỡng là 3,7% và các khoản linh tinh khác là 0,9%[6].
Nhà nước vì thế muốn đẩy mạnh tư nhân hóa thì cần có sự kiểm soát và giám sát buộc các cơ sở GD ĐH tư thục tăng cường trách nhiệm xã hội và giải trình. Bảng dưới đây sẽ cho thấy những đặc trưng tiếp diễn của tư nhân hóa trong GDĐH[7]:
Thành phần | Tính công lập cao | Tính tư nhân hóa cao | ||
| Tiến trình tư nhân hóa | |||
1. Nhiệm vụ / Mục tiêu | Mục tiêu phục vụ cho lợi ích công lập của nhà nước được xác định bởi nhà trường/giảng viên và nhà nước | Mục tiêu phục vụ cho lợi ích của cả công lập và tư thục nhưng được xác định chủ yếu bởi nhà trường/ giảng viên | Mục tiêu chủ yếu đáp ứng yêu cầu cá nhân nghề nghiệp của sinh viên | Mục tiêu chủ yếu phục vụ cho sở thích cá nhân của sinh viên, khách hàng và chủ sở hữu |
2. Sở hữu | Công hữu: có thể được thay đổi hoặc đóng cửa bởi nhà nước | Tập đoàn công lập hoặc thực thể pháp lý | Tư nhân phi lợi nhuận: Trách nhiệm xã hội công lập rõ ràng | Tư nhân vì lợi nhuận |
3. Nguồn doanh thu | Tất cả từ người đóng thuế hoặc tài trợ công lập | Chủ yếu từ công lập, nhưng có sự chia sẻ học phí | Chủ yếu từ khu vực tư thục nhưng có sự hỗ trợ của nhà nước cho sinh viên gặp hoàn cảnh khó khăn | Tất cả là lợi nhuận tư: Chủ yếu từ học phí hay lệ thuộc hoàn toàn vào học phí |
4. Mức độ kiểm soát của Chính phủ | Kiểm soát chặt chẽ thông qua vai trò của bộ hoặc cơ quan quản lý nhà nước | Chịu sự kiểm soát nhưng mức độ thấp hơn cơ quan nhà nước khác | Mức độ tự chủ cao; kiểm soát giới hạn ở mức độ giám sát | Mức độ kiểm soát hạn chế đối với bất kỳ dịch vụ kinh doanh nào |
5. Quản lý | Theo tiêu chuẩn học thuật thông thường; quản trị chia sẻ, chống lại chủ nghĩa quyền hành/ kiểm soát tập trung. | Theo tiêu chuẩn học thuật nhưng chấp nhận sự cần thiết cho hệ thống quản lý hiệu quả | Hạn chế đối với tiêu chuẩn học thuật; kiểm soát quản lý cao | Hoạt động giống như một công ty, theo cách quản lý điều hành của công ty |
Nhìn vào bảng trên (cột cuối cùng), có thể thấy quá trình tư nhân hóa cao độ trong GD ĐH sẽ dẫn đến việc nhà đầu tư chỉ tập trung vào tối đa hóa lợi nhuận. Tức hoạt động hoàn toàn giống như một công ty.
Việc này sẽ dẫn đến việc quên đi mục tiêu cao cả ban đầu của GDĐH là sáng tạo tri thức, truyền đạt tri thức và phục vụ cho lợi ích của nhân loại.
Theo nhận định thống nhất của nhiều chuyên gia về quản trị ĐH trên thế giới, GDĐH chịu sự tác động và chi phối của 3 yếu tố rất quan trọng là nhà nước, nhà trường/chính thể học thuật và thị trường (tham khảo Clark 1983; Becher và Kogan, 1992; Braun và Merrien, 1999, Neave và van Vught, 1994; Goedegeburre và Hayden, 2007).
Tuy nhiên, để thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của xã hội và tác động của toàn cầu hóa, xu hướng trường ĐH hoạt động như một doanh nghiệp/ công ty (để đảm bảo hiệu quả đầu tư) kết hợp với hương vị "cận thị trường" (để thích ứng với nền kinh tế thị trường nhưng tránh thương mại hóa) dưới sự hỗ trợ, giám sát và điều tiết của nhà nước là mô hình hoạt động tối ưu nhất của các trường ĐH trên thế giới hiện nay[8], bất kể đó là mô hình công lập hay tư thục.
(còn nữa)
[1] http://vietgiao.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=350:lum-xum-chuyen-doi-dai-hoc-dan-lap-sang-tu-thuc-khoi-nguon-tu-quy-che&catid=157:bao-chi&Itemid=430
[2] Trích từ Qui hoạch Tổng thể cho Giáo dục Đại học Việt Nam (tài liệu chưa xuất bản).
[3] Tham khảo http://www.baomoi.com/Home/GiaoDuc/tamnhin.net/Thuc-hu-hoat-dong-cua-cac-truong-dai-hoc-tu-thuc-o-Viet-Nam/6291250.epi
[4] OECD Stat Extracts. Tham khảo từ Shin, J.C & Harman, G. (2009). New challenges for higher education: global and Asia-Pacific perspectives, Asia Pacific Educ. Rev. (2009) 10:1-13
[5] www.usnews.com, http://www.forbes.com/college
[6] http://www.waseda.jp/zaimu/index-e.html
[7] Như 7