Chuyên gia World Bank: Tỷ lệ sinh viên Việt Nam nhập học thấp nhất Đông Á
(Dân trí) - ThS Christophe Lemiere, Trưởng ban phát triển con người Ngân hàng thế giới tại Việt Nam cảnh báo Việt Nam có tỷ lệ nhập học đại học, cao đẳng thấp nhất trong các nước Đông Á.
Tại Hội thảo về tự chủ đại học của ĐH Quốc gia TPHCM tổ chức ngày 21/4, ông Christophe Lemiere, Trưởng ban phát triển con người Ngân hàng thế giới tại Việt Nam (World Bank) đưa ra bài báo cáo về vấn đề giáo dục đại học Việt Nam.
Bài phân tích của chuyên gia World Bank chỉ ra, Việt Nam có tỷ lệ nhập học đại học - cao đẳng (ĐH-CĐ) thấp nhất trong các nước Đông Á giai đoạn 2020-2022.
Cách đây 20 năm, tỷ lệ nhập học chung của Trung Quốc thấp hơn Việt Nam. Đến 10 năm trước, tỷ lệ nhập học của hai nước khá tương đồng nhưng hiện nay, tỷ lệ nhập học chung của Việt Nam chỉ bằng một nửa Trung Quốc.
Đáng chú ý, thanh niên Việt Nam thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo chiếm chưa đến 15% tổng số sinh viên đại học và có đến hơn 40% sinh viên thuộc diện khá giả.
Một thông tin đáng lưu tâm là năng lực nghiên cứu và phát triển tại Việt Nam trong 10 năm liền (2010-2020) không thay đổi, dao động từ hơn 62.000 đến gần 72.000 người.
Báo cáo của chuyên gia World Bank cũng thể hiện, tỷ trọng ngân sách chi tiêu công phân bổ cho giáo dục CĐ-ĐT của Việt Nam thuộc nhóm thấp nhất trong khu vực và các quốc gia tương đương. Dẫn chứng năm 2019, giáo dục ĐH Việt Nam chỉ nhận được 0,23% GDP hoặc 4,9% tổng chi tiêu công cho giáo dục.
Các trường ĐH ở Việt Nam đang phụ thuộc quá nhiều vào đóng góp của hộ gia đình. Cụ thể, năm 2017, học phí chiếm đến 57% trong nguồn thu của các trường ĐH công lập ở Việt Nam, đến năm 2021, tiền thu học phí chiếm 77% nguồn thu.
Trong khi, hỗ trợ tài chính cho sinh viên có hoàn cảnh khó khăn còn hạn chế như phạm vi bao phủ thấp, giá trị nhỏ và điều khoản trả nợ kém hấp dẫn; không có chương trình học bổng cấp quốc gia.
Chương trình cho vay sinh viên do Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam quản lý ngày càng khó tiếp cận. Năm 2011 có 2,4 triệu người thụ hưởng, năm 2017 chỉ còn 725.000 người thụ hưởng và đến năm 2021 chỉ còn 37.000 người thụ hưởng.
Với phương án khác trong trường hợp gặp khó khăn về tài chính (mức học phí cao) trong việc tiếp cận giáo dục ĐH, có đến 50% chọn đổi ngành học nếu gặp khó khăn về tài chính, tối đa chỉ 12% cân nhắc sử dụng tín dụng sinh viên.
Về kinh phí nghiên cứu phân bổ cho các trường ĐH tại Việt Nam, ông Christophe Lemiere đánh giá còn thấp và không tương xứng với năng lực và tiềm năng.
Tỷ lệ nhân lực nghiên cứu và phát triển của trường ĐH ở Việt Nam khoảng 50%, tuy nhiên ngân sách nhà nước phân bổ cho nghiên cứu tại các trường ĐH chỉ chiếm 16%.
Trong khi đó, tại Trung Quốc tỷ lệ nhân lực chỉ khoảng 10% nhưng ngân sách chi đến 24,4%, tại Mỹ con số tương ứng là 18% và 28%.
Chưa kể, tại Việt Nam có nhiều rào cản trong tiếp cận kinh phí nghiên cứu và phát triển với các nhà nghiên cứu tại trường ĐH như kinh phí thấp, không đủ đáp ứng nhu cầu thực hiện; quy trình thủ tục phức tạp và thời gian chờ phê duyệt quá lâu.
Sự tham gia của khu vực tư nhân vào giáo dục ĐH tại Việt Nam cũng hạn chế do một số rào cản như tư duy truyền thống (cách tiếp cận xã hội hóa giáo dục ĐH chủ yếu xoay quanh học phí và đóng góp từ các hộ gia đình); rào cản về thể chế, chính sách đối với đại học công lập, việc sử dụng tài sản công (đất đai, công trình) thiếu nhất quán; thiếu hướng dẫn và hỗ trợ kỹ thuật trong việc tổ chức thực hiện dự án PPP trong giáo dục đại học.
Từ thực tế này, Trưởng ban phát triển con người Ngân hàng thế giới tại Việt Nam đưa ra 5 kiến nghị về tài chính cho giáo dục ĐH Việt Nam. Cụ thể:
1. Việt Nam cần điều chỉnh cách tiếp cận tự chủ tài chính của các trường ĐH.
Tuy nhiên, tránh đồng nhất tự chủ tài chính với tự lực cánh sinh về tài chính hoặc hiểu theo nghĩa hẹp là không có hỗ trợ từ ngân sách nhà nước.
Các khía cạnh của tự chủ tài chính bao gồm: Tính bền vững và các loại chi tiêu công, năng lực sản xuất thặng dư, khả năng vay tiền, khả năng sở hữu các tòa nhà và khả năng thu học phí.
2. Việt Nam cần tăng đáng kể chi ngân sách nhà nước cho giáo dục ĐH, dành 0,8-1% GDP đầu tư cho giáo dục ĐH đến năm 2030, tương đương hơn 300 triệu USD/năm. Từ nguồn này sẽ giúp các trường có nguồn tài chính bền vững, sinh viên được tiếp cận bình đẳng bằng các hình thức cho vay dựa trên thu nhập trong tương lai, miễn học phí cho các đối tượng mục tiêu và chương trình học bổng quốc gia.
3. Tăng tỉ lệ chi ngân sách nhà nước cho nghiên cứu và phát triển phân bổ cho các trường ĐH, dành hơn 30% đầu tư từ ngân sách nhà nước cho nghiên cứu và phát triển tại các trường ĐH, tức hơn 117 triệu USD/năm.
4. Điều chỉnh cơ chế phân bổ và đơn giản hóa quy trình nộp đơn đề xuất nghiên cứu.
5. Huy động nguồn lực bổ sung từ khu vực tư nhân, cụ thể tăng hợp tác công - tư, đa dạng hóa nguồn thu và tiếp cận tín dụng.