Bài thơ tiếng dân tộc thiểu số của Đại tướng Võ Nguyên Giáp
(Dân trí) - Trong thời kỳ hoạt động ở Cao Bằng năm 1941, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã sáng tác nhiều thơ ca phục vụ cách mạng bằng tiếng phổ thông và tiếng dân tộc thiểu số.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp với đồng bào dân tộc.
Được cả thế giới biết đến là một tướng thiên tài về mặt quân sự, Đại tướng còn là một giáo viên dạy Lịch Sử nổi tiếng với những bài giảng rất hay, cuốn hút, đặc biệt là những bài giảng về vấn đề lịch sử quân sự. Là một nhà giáo mẫu mực, tâm huyết với nghề, yêu trò như con, Đại tướng đã đem hết tâm huyết truyền tải cho những thế hệ sau một nguồn kiến thức về lịch sử bao la vô tận, một khí thế hào hùng của dân tộc chống giặc ngoại xâm, cách mạng của Pháp, mưu trí của Napoléon... mặc dù họ không trực tiếp sống trong thời kì đó nhưng cũng cảm thấy rạo rực và khí thế sôi trào. Những bài giảng ấy bồi đắp lòng yêu nước, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc... Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển giáo dục nước nhà khi ông giữ chức Phó Thủ tướng Chính phủ trực tiếp chỉ đạo công tác khoa học và giáo dục. Sẽ là một khiếm khuyết lớn nếu không nói đến những cống hiến có giá trị to lớn của ông trên mặt trận giáo dục.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết rất nhiều bài báo, có thể nói là hàng trăm bài, để lại rất nhiều luận văn, gần 100 bản có giá trị trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là ông đã viết rất nhiều sách về văn học. Đại tướng là tác giả hàng loạt cuốn sách như: Từ nhân dân mà ra (1964), Những năm tháng không thể nào quên (1970), Chiến đấu trong vòng vây (1995), Điện Biên Phủ - điểm hẹn lịch sử (1964), Mấy vấn đề đường lối quân sự của Đảng (1970), Tổng hành dinh trong mùa xuân đại thắng (2000)... Nhiều cuốn sách của ông được dịch sang nhiều thứ tiếng, được các học giả dùng làm tài liệu nghiên cứu một chặng đường lịch sử Việt Nam, như cuốn How We Won the War, đến nay đã tái bản tám lần và được dùng như giáo trình của khoảng 30 trường cao đẳng, đại học ở Mỹ.
Những tập giáo trình lịch sử do Đại tướng viết nên được truyền tay nhau qua bao thế hệ học trò. Những bài học được cấu trúc rất dễ thuộc, dễ nhớ... Ông có cách giảng dạy dễ hiểu, vừa nói tiếng Kinh vừa nói tiếng Tày, soạn cả bài giảng thành thơ bằng tiếng Tày, tiếng Thái, những bài giảng đã nung nấu trong lòng nhiều thế hệ thanh niên về lý tưởng sống sao cho xứng đáng với quê hương anh hùng dân tộc.
Cuối năm 1941, Đại tướng Võ Nguyên Giáp về hoạt động ở Cao Bằng, xây dựng căn cứ địa cách mạng. Với tài năng và mưu lược xuất sắc trên mặt trận quân sự và mặt trận văn hóa, Đại tướng đã sáng tác nhiều thơ ca phục vụ cách mạng bằng tiếng phổ thông và tiếng dân tộc thiểu số như bài “Việt Minh ngũ tự kinh”.
"... Nước ta bị Tây cướp
Đã bảy tám mươi năm
Chúng đè nén giam cầm
Bắt ta làm nô lệ
Muốn đuổi cho sạch hết
Bọn đế quốc hùng cường
Thì ta phải theo gương
Các anh hùng dân tộc.
....
Dân khắc bầu chính phủ
Dân có quyền tự do
Được hội họp tha hồ
Được nói bàn phải trái
Được bán buôn đi lại
Trên đất nước nhà mình
Thổ, Mường, Mán, Nùng, Kinh...
Thương yêu nhau thân ái".
Đây là trích đoạn trong bài “Việt Minh ngũ tự kinh” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết bằng tiếng Dao Tiền do nhà thơ Bàn Tài Đoàn cung cấp trong tuyển tập “Văn học yêu nước và cách mạng ở Cao Bằng trước năm 1945”, do Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc ấn hành đầu năm 2009, do 2 nhà văn Triều Ân và Đoàn Lư đã dày công nghiên cứu sưu tầm. Trong đó nhà văn Triều Ân đã miệt mài sưu tầm từ thập kỷ 60 của thế kỷ XX. Tác phẩm khẳng định vị trí, vai trò của văn thơ yêu nước và cách mạng do các chí sĩ yêu nước và các nhà cách mạng sáng tác ở Cao Bằng.
Tại trang đầu cuốn sách, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: "Những năm đầu thập kỷ 40, thế kỷ trước, ở Cao Bằng rộ lên phong trào sáng tác thơ ca để tuyên truyền, tổ chức, cổ vũ đấu tranh cách mạng. Bác Hồ làm thơ. Cán bộ Trung ương, cán bộ tỉnh, huyện làm thơ. Thời gian hoạt động ở Cao Bằng, tôi đã cố gắng học tiếng dân tộc để làm thơ vận động cách mạng... Nhiều nơi, thơ ca yêu nước và cách mạng lúc bấy giờ như một luồng gió mới góp phần thổi bùng lên ngọn lửa cách mạng để đến mùa thu năm 1945 toàn dân tộc vùng lên làm Cách mạng tháng Tám thành công, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa".
Những bài thơ, bài văn bằng tiếng dân tộc tuy không vần, không nhịp, không đối câu, đối vần và cũng không theo một thi luật nào cả thế nhưng những bài thơ, bài văn đó lại rất dễ nhớ, dễ thuộc và được từng học trò của Đại tướng nằm lòng vì đó là ngôn ngữ của chính những người dân tộc được họ sử dụng hàng ngày (chủ yếu là người dân tộc Tày, dân tộc Thái ở Thái Nguyên và Cao Bằng), từ ngữ dân tộc mộc mạc miêu tả một cách chân thực về cách mạng, về lịch sử, về cuộc sống, về con người, về xã hội... mà khi đọc ta thấy nó không còn là một bài thơ với niêm luật chặt chẽ hay một giáo trình sâu xa khó hiểu mà những bài học đó như những câu chuyện thường được kể đến, được nói đến trong đời sống sinh hoạt và trong sản xuất.
Đại tướng nhận định: Giáo dục và đào tạo không chỉ có sứ mệnh nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài... mà còn có sứ mệnh tạo ra những định hướng về giá trị văn hóa đạo đức, thẩm mĩ và tinh thần có ý nghĩa thúc đẩy sự tiến bộ của giáo dục bởi vì giáo dục và đào tạo là mục đích sống vì con người và vì cuộc sống. Giáo dục và đào tạo là nhân tố quyết định để phát huy tiềm năng trí tuệ và năng lực sáng tạo của con người Việt Nam và cộng đồng dân tộc Việt Nam, là động lực quan trọng để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa nước ta tiến lên nhanh và vững, hội nhập quốc tế thắng lợi, sánh vai cùng các nước tiên tiến trên thế giới.