3 lý do khiến hệ thống Giáo dục Việt Nam bị hạn chế
(Dân trí) - Cơ cấu hệ thống giáo dục Việt Nam hiện nay về cơ bản không đáp ứng nhiều định hướng quan trọng trong Nghị quyết Trung ương 29 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH bởi nhiều lý do.
Theo thuyết minh sơ đồ cấu trúc hệ thống Giáo dục Việt Nam cho các thập nhiên đầu của thế kỷ 21 do Hội Khuyến học Việt Nam, Hiệp hội các trường ĐH,CĐ Việt Nam, Hiệp hội vì giáo dục cho mọi người đồng đề xuất đã nêu 3 lý do khiến Hệ thống Giáo dục Việt Nam hiện tại (dựa theo Luật Giáo dục, Luật Giáo dục Đại học và Luật Giáo dục nghề nghiệp) đã bị hạn chế nhiều.
Thứ nhất, toàn hệ thống không có sự nhất quán do khối Giáo dục nghề nghiệp được tách riêng biệt. Do không phải là một bậc học nên không thể xem khối này nằm ở vị trí trên giáo dục trung học và dưới giáo dục đại học.
Ngay giữa các trình độ sơ cấp, trung cấp và cao đẳng trong khối đó cũng không có sự liên thông thực sự. Luật GDNN quy định muốn được dự tuyển vào cao đẳng thí sinh phải đồng thời vừa có bằng trung cấp vừa có bằng tốt nghiệp THPT ( hoặc đã học và đạt yêu cầu đủ khối lượng kiến thức văn hóa THPT ). Từ cao đẳng chuyển lên đại học lại càng không dễ dàng chút nào vì có sự khác nhau về cấu trúc chương trình đào tạo (do 2 cơ quan Nhà nước khác nhau quy định ).
Thứ hai, không có sự hội nhập quốc tế về giáo dục và đào tạo. Theo Phân loại giáo dục theo tiêu chuẩn quốc tế của UNESCO (ISCED 2011 ), thì các trình độ sơ cấp và trung cấp ở Luật GDNN không tương ứng với bất kỳ một cấp độ nào của ISCED2011 cả. Thí dụ như, đối với trình độ trung cấp, tùy theo trình độ học vấn (văn hóa ) đầu vào của người học, nếu người học đã tốt nghiệp trung học cơ sở (THCS) thì người đó chỉ đạt được cấp độ 2 của ISCED (vì có thời gian đào tạo quá ngắn ), còn nếu người học đã tốt nghiệp trung học phổ thông (THPT) thì người đó đã đạt được cấp độ 4 của ISCED. Nhưng theo Luật GDNN thì cả 2 loại người học đều có cùng một trình độ.
Ngoài ra ISCED2011 cũng quy định trình độ cao đẳng phải thuộc về giáo dục đại học trong khi theo Luật GDNN thì cao đẳng không được xem thuộc giáo dục đại học.
Thứ ba, không có sự phân luồng học sinh sau trung học cơ sở cũng như sau trung học phổ thông. Việc rẽ nhánh học sinh sau THCS là lối đi vào “ngõ cụt” vì người học không có hướng học lên cho dù là cao đẳng, vì muốn học lên cao đẳng còn cần phải có cả bằng tốt nghiệp THPT .
Do đó xu hướng chung, như từ trước đến nay, sau THCS người học đều cố đi vào THPT. Còn sau THPT người học thường có xu hướng đi vào đại học vì nếu đi vào cao đẳng thì sau này sẽ rất khó học tiếp lên đại học (do cấu trúc chương trình ở hai trình độ này lại được hai bộ khác nhau quy định theo những định hướng khác nhau, rất khó liên thông với nhau).
Tập trung thực hiện phân luồng học sinh
Cũng theo thuyết minh sơ đồ cấu trúc hệ thống Giáo dục Việt Nam của các Hội trên thì để tạo ra tiền đề cho việc phân luồng học sinh sau trung học cơ sở trước mắt cần tập trung quản lý nhà nước về giáo dục – đào tạo về cùng một đầu mối như rất nhiều nước đã làm (thí dụ như trong Bộ Giáo dục của Thái Lan có 3 Tổng cục là: giáo dục phổ thông, giáo dục đại học và giáo dục nghề).
Thiết kế khung chương trình tổng thể cho các hệ giáo dục phổ thông (bao gồm: giáo dục tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông) và hệ trung học nghề.
Thực hiện cơ chế phân cấp quản lý về giáo dục – đào tạo cho các địa phương và các cơ sở giáo dục (về ngành nghề, nội dung chương trình, mạng lưới cơ sở giáo dục…) bám sát cơ cấu chuyển dịch kinh tế và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng miền, cũng như ở tầm quốc gia.
Tổ chức lại hệ thống giáo dục các trường THPT, trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp nghề, các cơ sở dạy nghề ở địa phương để hình thành nên 2 loại trường cơ bản là trung học phổ thông và trung học nghề.
Theo thống kê giáo dục 2013, Việt Nam hiện có 2669 trường trung học phổ thông trong khi chỉ có 295 trường trung cấp chuyên nghiệp và 303 trường trung cấp nghề. Do đó, để có sự phân luồng khoảng hơn 30% học sinh tốt nghiệp THCS, không phải chỉ chuyển mục tiêu đào tạo cho các trường trung cấp chuyên nghiệp và trung cấp nghề để trở thành các trường trung học nghề mà còn cần hợp nhất một lượng rất lớn các trường THPT với các trung tâm dạy nghề tại địa phương (có khoảng 869 trung tâm) để chuyển các trường này thành trường trung học nghề.
Ban hành chính sách khuyến khích người học đi theo luồng trung học nghề bao gồm các ưu đãi về chính sách tuyển sinh, học phí, học bổng… Cần kiên quyết siết chặt chỉ tiêu đối với hệ THPT.
Đối với việc phân luồng học sinh sau THPT cần thực hiện phân tầng các cơ sở giáo dục đại học, trước hết là các cơ sở giáo dục công lập, theo sứ mệnh: Hướng nghiên cứu chỉ dành cho các trường đại học trọng điểm quốc gia; Hướng ứng dụng – thực hành chủ yếu dành cho các trường thuộc Bộ, Ngành và địa phương.
Sáp nhập một số Viện/ Trung tâm nghiên cứu khoa học trọng điểm vào các trường đại học định hướng nghiên cứu để tăng cường năng lực nghiên cứu cho các trường này, để chúng sớm trở thành các trường đại học nghiên cứu thực sự, đạt chuẩn quốc tế.
Xây dựng khung trình độ quốc gia và ban hành đầy đủ hệ thống văn bản hỗ trợ để triển khai khung này.
Từng bước xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản, tập trung năng lực quản trị cho hội đồng trường, trao quyền tự chủ thực sự cho các cơ sở GDĐH.
Thành lập một số học viện công nghệ cấp cao đầu tư theo các hướng mũi nhọn.
Quy hoạch lại hệ thống các trường cao đẳng và giáo dục chuyên nghiệp tại các địa phương để hình thành hệ thống trường cao đẳng cộng đồng đáp ứng nhanh nhu cầu nhân lực đại học ở từng địa phương.
Hồng Hạnh (ghi)