Vị đắng nụ hôn

Dù mang một tên gọi không lấy gì làm lãng mạn, Mouth vẫn là bài hát của mọi cô gái đang yêu với trái tim thật dễ vỡ và thật yếu mềm? Mouth, nghe thô mộc thật đấy, nhưng lại là một ca khúc lung linh và uyển chuyển đến không ngờ.

Những ngày sắp rời Úc, tôi thường đi tìm mua những vật kỷ niệm như một cách ghi nhớ những gì tạo ấn tượng mạnh mẽ nhất cho mình về xứ sở hoang dại và xinh đẹp này. Trong đó, album có bài Mouth của Merril Bainbridge là một trong những vật kỷ niệm thật đáng giá.

Lý do chính không phải vì Merril Bainbridge là nữ ca sĩ Úc ra đi từ thành phố Melbourne, mà chính vì vẻ đẹp đơn giản của Mouth (nằm trong album The Garden). Lần đầu tiên nghe Mouth, đó là ấn tượng ngồ ngộ về một giọng hát ngây thơ của một cô gái trẻ nhắc đi nhắc lại về nụ hôn (có vẻ như rất ẩm ướt) cùng cảm giác "điên cuồng" vội vã của tình yêu đam mê (I jump on you, you jump on me). Có cảm giác như nụ hôn thật dài và thật... vướng víu.

Giọng hát ngây thơ với cách phát âm rõ ràng nắn nót dễ làm người nghe nhớ đến Samantha Fox thời còn ôm headphones ngồi hát True Devotion. Thế nhưng khác với True Devotion của Samantha Fox - mượt mà và trong sáng, Mouth là ca khúc gây chú ý ngay từ những câu đầu tiên về một nụ hôn khiến "cả anh và em đều sẽ nổi tiếng trên TV". Ý nghĩa thực dụng được chuyển tải qua một giọng hát ngây thơ đã mang đến cho bài hát một màu sắc thật đặc biệt.

Cũng chính những câu đầu tiên đó đã tạo cảm giác như Mouth là một ca khúc mới, được viết ra trong không khí sôi động của những chiêu đánh bóng tên tuổi bằng chuyện riêng tư khi mà ngay cả các ngôi sao lớn cỡ Tom Cruise cũng bị đặt câu hỏi về nụ hôn say đắm trên màn ảnh với cô nàng Katie Holmes của mình, đến nỗi chính Nicole Kidman đã phải thốt lên: "Những nụ hôn quá say đắm trước ống kính sẽ mang lại cảm giác giả tạo đấy Tom à".

Mouth

I feel like I've been blown apart. There are pieces here
I don't know where they go, I don't know where they go
Kiss me on my salty lips
I bet you feel a little crazy but for me
We'll be famous on T.V.

Would it be my fault if I could turn you on?
Would I be so bad if I could turn you on?
When I kiss your mouth I want to taste it
Turn you upside down, don't want to waste it

I jump on you, you jump on me
You push me out and even though you know
I love you I'd be inclined to slap you in the mouth
When I kiss your salty lips
You will feel a little crazy, but for me
I'll be famous on TV

Now, will it be my fault if
I take your love and throw it wide?
You might restrain me but could you really blame me?
And you will feel you're blown apart
All the pieces there will fit to make you whole
And I know where they go
 

Thế nhưng cảm giác của bạn có thể sẽ thay đổi hoàn toàn ngay sau khi nghe những lời tự sự từ chính Merril về Mouth, một bài hát ra đời từ năm 1995: "Đó là ca khúc viết về một mối quan hệ và những gì cô gái cảm nhận được về mối quan hệ đó. Đôi khi bạn cảm thấy mình hoàn toàn tự chủ nhưng tiếp ngay sau đó lại là sự bấp bênh không vững chắc". Mouth đã đưa Merril Bainbridge trở thành nữ ca sĩ Úc đầu tiên có ca khúc tự sáng tác đầu tay dẫn đầu bảng xếp hạng Úc. Nụ hôn bất tận này cũng đã đem lại cho Mouth vị trí số 1 trong bảng tổng sắp suốt 6 tuần liền, tạo nên bởi một nữ nghệ sĩ - một kỷ lục tính trong thời điểm lúc bài hát ra đời.

Và cũng thật bất ngờ khi biết rằng Merril là một người rất xa lạ với các trò đánh bóng tên tuổi hay các chiến dịch quảng cáo tiếp thị. Mouth của cô đến với người nghe không bằng con đường đó, mà bởi cách giãi bày thật sinh động và quyến rũ về sự bất ổn ngay cả khi tình yêu đang trong thời kỳ đam mê nhất.

Có phải vì vậy mà cho dù mang một tên gọi không lấy gì làm lãng mạn, Mouth vẫn là bài hát của mọi cô gái đang yêu với trái tim thật dễ vỡ và thật yếu mềm? Mouth, nghe thô mộc thật đấy, nhưng lại là một ca khúc lung linh và uyển chuyển đến không ngờ.

Theo Âu Lan (Australia)
Thanh Niên