Spielberg: Nhà làm phim bậc thầy của Hollywood
(Dân trí) - Đề cử giải Oscar 78 vừa qua của Steven Spielberg cho bộ phim “Munich”, đã đánh dấu những chương cuối trong sự nghiệp của nhà làm phim thành công nhất Holllywood này.
Ở tuổi 59, đạo diễn từng đoạt giải Oscar này có hơn 100 bộ phim mang tên ông. Ông chính là "nhân vật" đứng đằng sau những siêu phẩm có doanh thu cao nhất Hollywood như là Công viên kỷ Jura, Đại chiến, bộ phim kinh dị Hàm cá mập và bộ phim đầy tiếng vang với chủ đề về nạn tàn sát người Do Thái thời Hiller Schindler's List.
Lớn lên tại Phoenix, bang Arizona, chàng trai trẻ nhút nhát Spielberg lại kiên quyết đi vào thế giới điện ảnh vốn nhiều cám dỗ vinh quang và cũng không ít những nhọc nhằn. Để thực hiện ước mơ trong sâu thẳm trái tim mình, ngay từ năm 12 tuổi, cậu bé Spielberg đã thực sự viết và dựng bộ phim đầu tay bằng chính tiền túi của mình. Cậu dùng tiền từ việc kinh doanh cây trồng để sản xuất bộ phim và tự mua vé để thoả mãn sở thích xem phim ở rạp.
16 tuổi, "tác phẩm" của Spielberg đã chính thức được ra mắt công chúng. Bộ phim khoa học viễn tưởng Firelight được trình chiếu tại một rạp chiếu địa phương. Được khuyến khích từ thành công rất sớm này và với mong muốn bổ sung những kiến thức tự học, Spielberg đã mài sắc những kỹ năng của mình tại trường đại học California.
|
Spielberg chuyển hướng và kiên định với thể loại phim nhựa bắt đầu từ năm 1974 khi ông viết kịch bản và đạo diễn bộ phim The Sugarland Express do Goldie Hawn thủ vai. Thành công của bộ phim này đã mang lại cho ông cơ hội đạo diễn bộ phim được coi là kinh điển của thể loại phim kinh dị Hàm cá mập. Bộ phim về loài cá mập ăn thịt người tấn công vào những người đi dạo trên bãi biển. Đây chính là bộ phim thành công nhất năm 1975 và khẳng định Spielberg là đạo diễn số 1 của Hollywood. Bộ phim cho đến tận bây giờ vẫn đứng trong hàng ngũ các phim lôi kéo người xem đến rạp đông nhất và là phim mùa hè đáng xem nhất.
Từ cá mập, ông chuyển sang thế giới của người ngoài hành tinh với bộ phim thành công vang dội tiếp theo Close Encounters of the Third Kind vào năm 1977. Lại một lần nữa, Spielberg lập nên một tiêu chuẩn cho những người khác noi theo ở khả năng sử dụng những kỹ xảo hình ảnh và trạng thái nghệ thuật mang hiệu quả đặc biệt. Không dừng lại ở đó, thành công vang dội tiếp theo của bộ phim ET: the Extra-Terrestrial vào năm 1982 đã khẳng định ông chính là nhà làm phim có nhiều ảnh hưởng nhất trong suốt thập kỷ đó.
Vào cuối những năm 80, Spielberg bắt đầu thay đổi hướng sáng tác bằng cách đạo diễn các bộ phim chuyển thể như là The Color Purple của Alice Walker và Empire of the Sun, từ tiểu thuyết chiến tranh của JG Ballard. Sự chuyển hướng này không mang lại thành công và đánh dấu một thời kỳ đi xuống trong sự nghiệp của Spielberg. Nó kéo theo những thất bại tiếp nối của các bộ phim Hook và Always.
Nhưng Spielberg đã quay lại "quỹ đạo" thành công vào những năm 90 bằng cú đúp bất ngờ với thế giới hoang dại trong Công viên kỷ Jura và những tấm thảm kịch của người Do Thái trong Schindler's List.
Một bước ngoặt khác trong sự nghiệp của Spielberg là khi ông hợp lực cùng David Geffen và Jeffrey Katzenberg để sáng lập xưởng phim DreamWorks vào năm 1994. Đây là "cha đỡ đầu" của rất nhiều nhiều những bộ phim "hit" sau này như Vẻ đẹp Mỹ, Võ sỹ giác đấu, Một tâm hồn đẹp và bộ phim hoạt hình mới đoạt giải Oscar 78 vừa qua Wallace và Gromit: lời nguyền của Thỏ thành tinh...
Năm 2002 được xác nhận là một năm thành công rực rỡ với cả bộ phim nghiêm túc Minority Report và câu chuyện về anh chàng "lăng nhăng" trong Hãy bắt tôi nếu có thể khi nhận được sự hoan nghênh từ cả giới phê bình lẫn người hâm mộ điện ảnh.
Bộ phim năm ngoái Đại chiến với sự góp mặt của ngôi sao Tom Cruise đã nhận được những phản ứng trái chiều của giới phê bình nhưng vẫn là bộ phim mang lại doanh thu khổng lồ, thu được 30,5 triệu đô tại Anh và đứng thứ 5 trong những bộ phim thành công nhất năm 2005.
Bộ phim được đề cử giải Oscar năm nay Munich tuy không mang lại một bức tượng vàng nữa cho Spielberg nhưng đã chứng minh rằmg sau hơn 3 thập kỷ làm phim, Spielberg không hề mất đi "sự nhạy cảm bẩm sinh" của ông đối với môn nghệ thuật thứ 7 mà ông đã gắn bó gần hết cuộc đời.
Lê Thu
(Tổng hợp từ BBC, Film reviews)