Nhà thơ Nguyễn Đức Hạnh: "Cháy đen rồi còn cố bùi thơm"
(Dân trí) - “Thơ Nguyễn Đức Hạnh dù chủ động buông bỏ suy lý và sự khôn ngoan, nhưng trạng thái tỉnh thức trong thơ ông không hề mất đi", nhà lý luận phê bình Mai Văn Phấn nhận xét về nhà thơ Nguyễn Đức Hạnh.
Nhà thơ Nguyễn Đức Hạnh vừa ra mắt tập thơ song ngữ Việt - Anh “Khát cháy” (“The Ardour of Thirst”, NXB Văn Học, 2025), do nhà thơ - dịch giả Võ Thị Như Mai chuyển ngữ. Tập thơ gồm 95 bài thơ, chia thành 4 phần: Khúc hiếu thuận, Khúc sơn hà, Khúc tri âm, Khúc huê hình.
Khúc hiếu thuận gồm 24/95 bài thơ, được xếp đầu tiên của tập thơ. Trong văn hóa Việt, hiếu thuận là thành tố của đạo lý “uống nước nhớ nguồn”.
Hiếu thuận trong thơ Nguyễn Đức Hạnh được mở rộng, ngoài nghĩa sinh thành, phụng dưỡng còn yêu nước, thương nòi.
Tận tụy với mẹ già, nhưng rồi thân mẫu của Nguyễn Đức Hạnh cũng không chống được mệnh trời. Bà vừa về với “miền mây trắng”, giữa tháng 8/2025.
Trong Khát cháy, Nguyễn Đức Hạnh kịp tặng mẹ hai bài thơ Mẹ ơi con nhóm lửa rồi, Mẹ ơi, con vẫn chỉ là con nghé. Thi ảnh mẹ còn xuất hiện trong nhiều bài thơ khác của anh.
“Xưa con nghịch, cha đánh, mẹ che/ Không bao giờ khóc/ Sáng mai đếm vết hằn trên lưng mẹ/ Con khóc như đê vỡ nửa đêm”; “Lời mẹ dặn dệt thành bao tải / Con là con nghé hiền mặc suốt mấy mùa đông/ Người ta ném thì chạy tìm sông/ Tiếng kêu làm vỡ mặt trời trốn việc ôm con sóng/ Trăm năm rồi vẫn con nghé lông bông”, (Mẹ ơi, con vẫn là con nghé). Giản dị nhưng thi điển.
Đọc bài thơ, ai không nhớ đến câu hát: “Tình mẹ bao la như biến Thái Bình”, (ca khúc Lòng mẹ của nhạc sĩ Y Vân). Con cái dù làm lớn đến thế nào, làm đến ông nọ, bà kia thì trong đôi mắt người mẹ vẫn luôn bé thơ, luôn cần được che chở, bảo ban.
Nguyễn Đức Hạnh thuộc thế hệ những nhà thơ sinh ra, lớn lên cùng nghèo khó “Nhà dột mang hết xoong nồi ra hứng/ Mẹ hứng bằng đôi mắt trũng sâu/ Mưa đong đầy rồi tràn ra ngoài mắt mẹ/ Ướt sũng con đang ngắm ngọn đèn dầu”, (Mẹ ơi con nhóm lửa rồi).
“Mẹ lần tràng hạt/ Những mùa đông tròn xoe trên tay mẹ/ Mẹ ơi! Con nhóm lửa rồi/ Sưởi cho bao mùa đông lăn thành giọt lệ/ Lăn đi đâu cũng mặn vào lòng/ Càng mặn càng trong”. Hình ảnh người mẹ trong “Mẹ ơi con nhóm lửa rồi thật tần tảo, nhân đức, từ bi.
Nguyễn Đức Hạnh sau vẻ ngoài cao lớn có một trái tim nhạy cảm, mong manh, chất chứa nỗi niềm. Và dù cho là nỗi niềm về mẹ trong thơ luôn có những đường vân triết lý, hạnh nhân. Lòng biết ơn đối với người mẹ không bao giờ có tận cùng.

Nhà thơ PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh (trái) và nhà thơ Ngô Đức Hành (Ảnh: Nhân vật cung cấp).
Theo nhà Lý luận phê bình văn học, nhà thơ Mai Văn Phấn: “Thơ Nguyễn Đức Hạnh thường chạm tới những khoảnh khắc khó gọi tên. Dù chủ động buông bỏ suy lý và sự khôn ngoan, nhưng trạng thái tỉnh thức trong thơ ông không hề mất đi - mà lắng sâu, trở thành nền móng âm thầm nâng đỡ và nuôi dưỡng những hình ảnh biến hóa sinh động, đầy bất ngờ”.
“Những con đường như đũa cả đũa con/ Lùa người như lùa cơm vào những hộp bê tông đói khát/ Hồn phố bày hàng xén/ Bán vui buồn cho thế nhân”, (Hà Nội lúc nào chẳng mưa). Hà Nội nhất là phố cổ, nơi có những địa danh hồn cốt, huyệt đạo của ngàn năm Thăng Long, thời đô thị hóa ào ạt, qua hình ảnh trong thơ Nguyễn Đức Hạnh, quả thật ám ảnh, bất ngờ.
Bất ngờ thăng hoa ám ảnh, tỉnh thức con người - thủ phạm đã và đang làm cho “hồn phố” trở thành mớ “hàng xén”, ngộp thở giữa các chiều kích bê tông.
Không có hiện thực, không có văn chương; dẫu là truyện trinh thám, hay viễn tưởng. Cuộc sống là cánh đồng màu mỡ để cho thơ bén rễ sinh sôi (Puskin); tuy nhiên, cuộc sống, với tư cách là hiện thực trong thơ rất khác. Bài thơ thành công, với tư cách sáng tạo, là bài thơ có chút gì đó lay động được tâm tư người đọc và tạo ra sự chuyển động ít nhiều trong tâm khảm người đọc.
Các vùng đất của Tổ quốc trong nội cảm của nhà thơ Nguyễn Đức Hạnh không chỉ ở 17 bài trong Khúc sơn hà mà còn hiện diện ở 27 bài thơ trong phần Khúc tri âm của Khát cháy.

Bìa tập thơ "Khát cháy" (Ảnh: Nhân vật cung cấp).
Bận công tác giảng dạy với vị trí một giảng viên, phải chia sớt thời gian cho nghiên cứu khoa học với tư cách một tiến sỹ chuyên ngành, nhưng Nguyễn Đức Hạnh đam mê, giàu năng lượng. Đến nay anh đã xuất bản 11 tác phẩm, trong đó có 5 tập thơ và 1 tập truyện ngắn.
Nguyễn Đức Hạnh mang nặng ơn nghĩa ở cuộc đời, kính trọng tài năng, tôn thờ sự tử tế. “Em là muối ớt/ Tôi chấm tôi vào cùng trăm năm/ Ngon cũng khóc mà đắng cay cũng khóc/ Ống cơm lam xấu đen còn mơ ước/ Tặng dẻo thơm mấy ai thấy trong lòng”, (Tôi là ống cơm lam nướng vụng).
Đời sống ngày càng áp lực, xã hội đủ màu. Thế nhưng Nguyễn Đức Hạnh luôn bình thản, tận hiến “Cháy đen rồi còn cố bùi thơm”. Anh luôn biết làm đẹp cho cuộc đời, sáng tác để đóng góp vào sự giác ngộ, những điều giản dị.
PGS, TS Nguyễn Đức Hạnh sinh năm 1962, quê Hưng Yên. Hiện ông sống và làm việc tại Thái Nguyên, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hội viên Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên. Ông là một nhà giáo, công tác tại Đại học Thái Nguyên.