Festival Huế 2012:
Ấn tượng với mặt nạ tuồng Huế
(Dân trí) - Tại Trường Lang (Đại Nội Huế) vào các đêm diễn ra Festival đã xuất hiện một triển lãm sắp đặt Mặt nạ tuồng Huế rất thú vị đối với những ai yêu thích nghệ thuật tuồng Việt Nam.
Mặt nạ tuồng Huế tại triển lãm sắp đặt
Ngoài một số cuốn sách nói về tuồng của các tác giả: Hoàng Châu Ký, Mịch Quang, Tôn Thất Bình và một số bài viết nói về nghệ thuật tuồng thì vấn đề cụ thể hóa như: dàn dựng nguyên vẹn lại các vở tuồng cổ, và đặc biệt là phục hồi các trích đoạn, các vở Tuồng đã từng biểu diễn trong cung đình vẫn còn quá ít ỏi, điều này khiến loại hình nghệ thuật này khó có thể bảo tồn được một cách nguyên vẹn”
Dưới thời vua Tự Đức, hàng trăm vở tuồng đã được sáng tác, hàng trăm đào, kép giỏi quy tụ về kinh đô. Vua Đồng Khánh thì mê tuồng đến nỗi đã dùng tên các nhân vật trong vở tuồng ông yêu thích để đặt cho các cung nữ. Còn vua Thành Thái cũng say sưa với nghệ thuật tuồng và rất trọng các đào, kép giỏi, ông không chỉ ban thưởng tiền bạc mà còn phong tước hiệu cho nhiều bậc thầy tuồng (hát bội). Ông là Hoàng đế duy nhất của triều Nguyễn đã lên sân khấu diễn tuồng "đóng trò" đồng thời là một tay trống tuồng tài ba.
Vua Khải Định cũng đam mê với tuồng. Ông đã thiết lập hẳn một nơi diễn tuồng riêng tại cung An Định, ban xiêm y tốt cho các đoàn hát, tạo điều kiện cho các tài năng phát triển... Từ sau thời Tự Đức, Tuồng Huế dần vượt ra khỏi cung đình và trở thành sân khấu của quần chúng bình dân. Nhiều người đã tự đứng ra lập gánh hát, nuôi "đào", "kép" riêng và ganh đua với nhau. Nghệ thuật tuồng từ đó sống và phát triển được nhờ công chúng.
Tại kinh đô Huế, các rạp hát bắt đầu mọc lên khắp nơi, sân khấu tuồng từ trước vốn có chỉ phục vụ vua quan triều đình, dần dần lan ra chiếm lĩnh ở những nơi công cộng. Những rạp hát nổi tiếng ở Huế trước năm 1945: Bắc Hòa, Nam Hòa, Đồng Xuân Lâu, Kim Long, An Cựu, Vĩ Dạ, Bao Vinh...Tên tuổi những cô đào tài sắc vẹn toàn vẫn còn thời Khải Định như: cô Thuôi, cô Ba Lài, cô Bạch Trúc, cô Cầm, cô Cháu Em, cô Nghè Đồng, cô Ba Vĩnh... Hơn 50 rạp hát khắp Đông Dương bấy giờ vang dội tiếng hát, tiếng trống của sân khấu tuồng Huế.
Đi ngược lại lịch sử trước đó vào năm 1627, Đào Duy Từ là người đầu tiên đã mang về cho chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (sống tại Huế) nghệ thuật tuồng (hát bội). Giới nghệ nhân tuồng và cổ nhạc Huế đến nay vẫn thờ Đào Duy Từ làm tổ sư và coi năm 1627 là niên đại khởi đầu của lịch sử Tuồng Huế. Nghệ thuật Tuồng Huế đã trải qua 3 thế kỷ phát triển trong dòng truyền thống văn hóa Phú Xuân và phát tích rực rỡ dưới triều đại các vua nhà Nguyễn. Vua Tự Đức đã từng tổ chức hàng ngũ sáng tác tuồng bao gồm những tác gia lỗi lạc trong nước, đứng đầu là Đào Tấn, sau này là tác giả kiệt xuất của nhiều vở tuồng nổi tiếng. Tuồng đã được biểu diễn trong các Nhà hát như: Duyệt Thị Đường (hiện vẫn còn trong Đại Nội), Tĩnh Quang viện, Thông Minh Đường, Minh Khiêm Đường (hiện vẫn còn trong lăng Tự Đức)...
Các mặt nạ được treo trên nền đền đài cổ kính rêu phong
Nghệ thuật Tuồng cung đình không đi theo con đường tả thật mà tả thần. Tả thần có nghĩa là không đi vào chi tiết cụ thể, tỉ mỉ của đối tượng, mà tóm thu đối tượng, miêu tả bằng một nét khái quát nhất, làm sao gạn lọc lấy những điểm cốt lõi cần nói, chứ không đi vào các chi tiết phụ thuộc. Tuân theo nguyên lý đó nên khi diễn tả người đi ngựa, diễn viên chỉ cầm chiếc roi ngựa, khi diễn tả buổi yến tiệc, người diễn viên chỉ cầm chén uống rượu là đủ. Bởi vậy khi xem một vở tuồng, thấy diễn viên cầm các vật: cái chén, cây roi, mái chèo, cành cây... khán giả biết ngay anh ta đang làm gì, trong hoàn cảnh nào.
Chính mặt nạ tuồng Huế là “chìa khóa” để giúp các nghệ sĩ nhìn vào hóa trang tốt hay đeo vào để diễn tuồng mà không cần phải bôi son trát phấn tạo mặt. Nhìn vào mặt nạ tuồng ta có thể thấy được thần khí của một vị vua, vị tướng, vị quan ngay thẳng hay nét xu nịnh của quan tham, người xấu hoặc nét dữ dằn, ma quái hay tráo trở... Mặt nạ tuồng hiện đang được Nhà hát Nghệ thuật Cung đình Huế, Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế cho nghiên cứu, lập hồ sơ khoa học để khái quát toàn bộ các loại mặt nạ nhằm tránh thất truyền cho hậu thế về sau.
Một mặt nạ lớn
Các mặt nạ nhỏ với sự biểu hiện đa dạng nét mặt, màu mặt, râu ria
Mặt nạ tuồng Huế dựng trên 2 cây cột đổ
Mặt nạ Triệu Khuôn Dần và Vũ Văn Thành Đô
La Hải Tinh, Mạnh Lương
Trình Giảo Kim
Bạch Đầu Ông
Triệu Đình Long
Trụ Vương
Hoàng Phi Hổ
Đổng Trác
Bao Công
Đổng Kim Lân
Hồ Ly Tinh
Nhiều người khách thích thú sờ thử vào mặt nạ tuồng khổng lồ