Ký sự: Hành trình gieo chữ trên những nẻo đường khói lửa

(Phần cuối) Trở lại quê hương miền Bắc

(Dân trí) - Tôi nằm điều trị tại ban dân y và chờ ra Bắc điều trị tiếp. Lần này đi theo tuyến bệnh viện có má ba Trầu và cháu Hằng - con chị Sáu cùng đi, má ra thăm miền Bắc và thăm Ba. Bố Quý đến tiễn hai mẹ con…

Bên nhau vượt qua đạn bom
Bên nhau vượt qua đạn bom...

Con gái bé bỏng
Con gái bé bỏng là niềm động viên rất lớn

 

Giọt nước mắt chia đôi
 

Hai vợ chồng đều cố giấu nước mắt dù chẳng biết bao giờ mới gặp lại. Bé Liên cứ ôm lấy bố, lúc xuống xuồng nổ máy chạy đi, bé khóc to gọi ”Ba ơi.. “ mãi rồi bé đòi ngồi với các chú, chắc vì nhớ bố quá.

 

May là đường ra Bắc lần này không phải đi bộ mà được ngồi trên ô tô, nhưng là xe tải làm tôi lại say lết bết. Đường bụi kinh khủng, bụi tung lên lút gần hết bánh xe. Mấy má con toàn phải ăn cơm trước khi đi khoảng 2 tiếng, nếu không sẽ nôn hết không còn sức đâu mà chịu đựng đường trường. Thế mà tới mỗi trạm nghỉ, hai bé Hằng và Hoài Liên vẫn líu lo hát cho các chú bộ đội xem. Hằng lớn hơn thuộc nhiều bài nên được các chú cho nhiều lương khô 702. Còn bé Liên cứ lên xe là đòi ngồi với các chú và bảo: - Tí nữa mẹ cháu lại say xe đấy. Tối  đến đi ngủ không có nước rửa chân, bé đã học được cách lấy bít tất đi vào cho khỏi bẩn võng.

 

Hành trình ra Bắc cũng rất gian khổ. Thương nhất là xe chở thương binh có nhiều anh bị tâm thần, đến trạm nghỉ lại phải trói lại, nếu không các anh chạy vào rừng hô xung phong ầm ĩ…

 

Xe đi gần đến khu vực quân ta đánh Buôn Mê Thuột,  bầu không khí rộn rã, tưng bừng hẳn lên bởi ai cũng háo hức trước viễn cảnh đã gần giải phóng Sài Gòn rồi.

 

Xe đến Quảng Bình đúng dịp mưa phùn lâm thâm. Trời ơi, bảy năm rồi mới lại được hưởng mưa phùn miền Bắc, chúng tôi ai cũng sung sướng ngửa mặt lên hứng nước mưa rất lâu.

 

Về đến Hà Nội, xe tập kết tại trạm đón tiếp ở Hà Đông, lại được phát chăn màn và quần áo mới.  

 

Một tháng sau, ngày 30 tháng 4 năm 1975 Sài Gòn hoàn toàn giải phóng. Trong niềm vui khải hoàn, không hiểu sao tôi lại chợt liên tưởng và nhớ đến những vần thơ của thi hào Nga Lermontov:

 

 Khi em đi trong đoàn quân chiến thắng 

 Hãy nhớ về các bà mẹ mang khăn trắng…

 

Để giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, gia đình cũng tôi đã góp phần xương máu… Anh trai thứ ba của chồng tôi - anh Ngô văn Đa đã hy sinh tại Đồng Tháp năm 1972. Em Phạm Hữu Nghị - con trai chú ruột tôi đã hy sinh tại Gia Lai. Cháu Nguyễn Văn Thành - con chị gái thứ hai của tôi cũng hy sinh tại miền Nam. Độc lập tự do đã phải trả bằng bao máu xương của các thế hệ người Việt Nam để các thế hệ hôm nay được hưởng hoà bình hạnh phúc. Công ơn đó chúng tôi và mong rằng mọi thế hệ Việt Nam mãi mãi không bao giờ quên... 

 
Suốt những năm tháng ở chiến trường miền Nam chúng tôi không viết thư cho gia đình. Có những người vừa viết, thư chưa đến nơi thì người đã hy sinh…Vậy mà về K15 - trạm đón tiếp cán bộ B tại Hà Đông, không hiểu ai đã thông báo mà người tôi được gặp đầu tiên là cô Nga nhà bà Phượng - người bà con rất gần của gia đình chồng tôi. Bà và cô đón hai mẹ con tôi về nhà chơi, đãi bữa cơm canh cua do chính cô Nga bắt. Tôi lại bồi hồi xúc động vì được thưởng thức lại vị của canh cua đồng miền Bắc mà ở miền Nam không bao giờ có được.

 

Người thứ hai tôi gặp là em gái Ngọc Anh đang là sinh viên trường Đại học Tổng hợp, và em trai Phạm Hữu Đức đang là sinh viên trường Đại học Sư phạm. Các em kể: Chị đi xa không ai dám nhắc đến tên chị vì sợ Thầy Mẹ buồn. Thấy các em đều đã trưởng thành, giỏi giang… tôi rất vui. Về đến nhà gặp lại người thân càng mừng mừng tủi tủi, mừng hơn là thấy Thầy tôi vẫn khoẻ. Thấy khoe hàng năm vẫn nhận được thiệp chúc Tết của Bộ Giáo dục gửi cho tôi, Thầy đều cất kỹ. Bấy nhiêu đó cũng đủ là niềm an ủi khi tôi đi xa...

 
Hạnh phúc trọn vẹn: Ông Bà và Cháu
Hạnh phúc trọn vẹn: Ông Bà và Cháu 
 
Tình yêu lửa thử vàng
 

Bao năm đã trôi qua mà trong tôi vẫn vẹn nguyên xúc cảm cùng niềm thương nỗi nhớ suốt một thời hoa lửa. Nhớ nhất là những dòng tâm sự đồng đội viết về mình:

 

...Lần đầu anh Tám Nghinh gặp Ấm tại Tà Nu bên bờ sông Trăng, anh Tám  tự hỏi: Nghị lực nào đã giúp cô gái bé bỏng kia dám đi vào vùng đất khốc liệt khu Trung Nam bộ? Và làm thế nào để vượt qua khốc liệt mà tồn tại? Thực tế cô gái ấy vẫn tồn tại cùng mọi người và đã trưởng thành cùng người chồng, dám chấp nhận sự khốc liệt của chiến trường khu Tám!...

 

Và càng cảm động hơn  khi được đọc những vần thơ mộc mạc và chân thành anh Quý viết tặng tôi - những vần thơ yêu thương, những vần thơ lửa cháy...
 

Gặp em

 

Gặp em giữa chiến trường khói lửa

Biết quê em nơi rừng cọ đồi chè

Cọ che nắng, che mưa, tâm hồn trong sáng

Hoa cọ hương chè, ngan ngát hương bay

 

(Năm 1970)

 

Tặng em

 

Cuối Kỷ Dậu đầu xuân Canh  Tuất

Đã yêu em rồi, anh phải xa em

Sáng ngày mai anh vào trận đánh

Ác liệt chiến trường Tà Lúa, CPC

 

Phải đương đầu với ba sư đoàn xe bọc thép

Bom pháo rền trời, vẫn chiến đấu hiên ngang

Quân ta đã tiêu diệt hàng ngàn tên giặc

Xe chỉ huy cũng phải cháy thành than

 

Quân ta vẫn bảo toàn lực lượng

Chiến thắng trở về anh lại đến bên em

 

(Trận càn giữa năm 1971)

 

Em
 

Anh yêu em với cả tấm lòng

Em lại bảo: anh còn trẻ quá

Em yêu ơi, đời phải qua sóng gió

Song tình yêu anh vẫn quá vụng về

 

Em cười thầm mà trái tim rung động

Đó là người để em chọn yêu thương

Em yêu ơi xuân còn dài lắm

Gánh nặng tình đời vẫn trĩu trên vai

 

(Năm 1971)

 

Ơn Cha Mẹ

 

Ơn cha mẹ đã sinh thành dưỡng dục

Để cho con có hạnh phúc lứa đôi

Công Cha như trời cao núi thẳm

Tình Mẹ kính yêu như biển rộng sông dài

 

(Năm 1971)
Phạm Thị Hải Ấm
(giáo viên khu Trung Nam Bộ 1969-1975)