Niềm tin vượt khó
Trong cuộc hành trình của nhân loại chặng đầu thế kỷ XXI, năm 2012 vừa qua đi đã để lại những dấu ấn khác thường. Lo lắng, bất an là tâm trạng chung của người dân nhiều quốc gia khi bước vào năm 2013.

Sau 80 năm, bóng ma “đại khủng hoảng kinh tế” đang tái hiện trên bình diện toàn cầu. Siêu cường Mỹ và cả thế giới đã không được chuẩn bị để ứng phó kịp thời và hiệu quả với những cơn sóng từng có sức tàn phá ghê sợ như vậy. Cái chết “bất đắc kỳ tử” của một số ngân hàng hay tình thế chơi vơi trên miệng vực phá sản của một số quốc gia châu Âu đang được coi là đòn cảnh báo nghiêm khắc đối với những nền kinh tế-tài chính được “vỗ béo” bằng những trò chơi kích thích tiền tệ không bị kiểm soát, trước hết là trên thị trường bất động sản và chứng khoán, cùng với đó là căn bệnh vay mượn đầu tư tràn lan, tiêu xài hoang phí... Nó càng cho thấy rõ thêm sự bấp bênh, tính dễ bị tổn thương của thế giới hiện đại trên con đường phát triển trong thời đại toàn cầu hóa. Khi phân tích cuộc khủng hoảng, các chuyên gia kinh tế đã nêu ra ba nguyên nhân: Sự tham lam vô độ của các tập đoàn tài chính, sự ứng phó chậm chạp của các chính phủ và sự đổ vỡ niềm tin của dân chúng.
Thời biến động, thế sự bão giông, gian khó trên mỗi bước đường đi tới. Không nằm ngoài vòng xoáy tai hại của cuộc khủng hoảng toàn cầu, nền kinh tế Việt Nam đã không tránh khỏi tình trạng “tụt áp”. Năm 2013, chúng ta tiếp tục phải đối mặt với bài toán khó: Cần giữ mức tăng trưởng GDP hợp lý, đồng thời phải kiềm chế bằng được lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Đây thực sự là việc có tính sống còn, đòi hỏi sự chỉ đạo, điều hành linh hoạt cùng sự đồng thuận vào cuộc của toàn xã hội. Nếu lạm phát quá cao, kinh tế vĩ mô bị rối loạn, đời sống của người dân tụt dốc thì khó mà lường hết hậu họa. Chúng ta đã thu được kết quả đáng ghi nhận khi đẩy lùi lạm phát từ hơn 18% năm 2011 xuống chỉ còn 6,8% năm 2012.
Nhưng tức thì, tình trạng giảm phát ngày một gay cấn hơn. Nền kinh tế phải chịu áp lực nặng nề từ khối nợ xấu hàng trăm nghìn tỷ đồng của ngân hàng, áp lực từ “cục máu đông” tồn kho nguy hại, trong đó chỉ riêng bất động sản đóng băng đã chôn vào đó một số tín dụng có thể lên tới 1,1 triệu tỷ đồng. Sản xuất, kinh doanh của nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa bị đình đốn, hàng hóa không tiêu thụ được, đời sống người lao động lao đao… Năm 2012, đã có hơn 5 vạn doanh nghiệp dừng hoạt động và giải thể. Những năm trước, vào dịp sát Tết, công nhân phải làm tăng ca, còn năm nay, nhiều nơi, công nhân buồn bã lũ lượt về quê vì mất việc làm.
Tuy tốc độ tăng trưởng GDP năm 2012 chỉ đạt 5,03% (so với chỉ tiêu ban đầu là từ 6 đến 6,5%), nhưng đó là kết quả có ý nghĩa trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang chìm trong khủng hoảng, nhiều nước tăng trưởng âm. Khi đường ra thế giới của nhiều sản phẩm Việt Nam gặp không ít trở ngại trong thời buổi “người khôn của khó”, sức mua giảm sút, hàng rào bảo hộ dựng lên khắp nơi thì thật đáng ghi công lớn cho người nông dân tảo tần, lam lũ, “một nắng hai sương”. Hạt gạo họ làm ra không những đã góp phần trọng yếu giữ bình yên xã hội mà còn đưa Việt Nam lần đầu tiên lên vị trí xuất khẩu gạo số 1 thế giới với hơn 8 triệu tấn.
Việt Nam, từ quốc gia nghèo, có thu nhập bình quân 140USD/người năm 1990 thì năm 2012 đã đạt gần 1.600USD/người. Tổng kinh phí dành cho an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo năm 2012 là 8.800 tỷ đồng. Khó khăn kinh tế bủa vây như vậy, nhưng tỷ lệ hộ nghèo cả nước năm 2012 vẫn giảm từ 1,1 đến 1,3% so với năm 2011. Năm 2012, chúng ta vẫn tạo thêm được 1,52 triệu việc làm mới... Những kết quả trên chứng tỏ bảo đảm an sinh xã hội luôn là nhiệm vụ trọng tâm, được ưu tiên ngay cả khi kinh tế khó khăn nhất, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta-chế độ hướng tới con người. Tính bền vững của chế độ chính là đây! Niềm tin trong khủng hoảng chính từ đây! Giới quan sát kinh tế nước ngoài liên tiếp đưa ra những đánh giá tích cực về khả năng trụ vững của nền kinh tế Việt Nam trước cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Sự ổn định chính trị-xã hội là một lợi thế, là tài sản vô giá trong một thế giới đầy biến động, khi không ít quốc gia hiện đang chìm đắm trong những cơn binh lửa, bị xô đẩy và chia cắt thành những chiến tuyến đối lập cùng với những cây súng bị hận thù đốt nóng.
Trước xu thế trọng tâm thế giới đang dần chuyển dịch về châu Á-Thái Bình Dương, hiếm thấy lúc nào chỉ trong cùng một thời điểm lại diễn ra bầu cử hay đại hội để nắm giữ quyền lãnh đạo tối cao tại hầu hết các nước lớn, có vị trí rất quan trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Việc xác lập quyền lực lãnh đạo tại các quốc gia này, ở những khía cạnh và mức độ khác nhau, đều tác động trực tiếp đến quan hệ đối ngoại của nước ta vào thời điểm mà cuộc đuổi bắt lợi ích dân tộc đang diễn ra hết sức nhạy cảm, căng thẳng và quyết liệt.
Việt Nam vừa đi qua năm 2012 với những thành tựu đối ngoại nổi bật. Dù phải đối mặt nhiều thách thức lớn từ các cuộc khủng hoảng toàn cầu và tình hình bất ổn nghiêm trọng trên Biển Đông, nhưng chưa bao giờ thế và lực của ta mạnh như ngày nay. Việc Việt Nam phát huy vai trò tích cực trong ASEAN, APEC, ASEM... đã làm sáng hơn vị thế mới trên trường quốc tế, tăng thêm động lực để đất nước phát triển trong một thế giới đang toàn cầu hóa sâu sắc.
Hơn lúc nào hết, cùng với việc phát huy ngoại lực, đây là lúc chúng ta phải tìm cách khơi mở cho bằng được mọi nguồn nội lực còn nằm trong tình trạng “ngủ đông”. Vốn trong dân, vốn Nhà nước có thể huy động cho đầu tư phát triển khá lớn. Gây dựng niềm tin cho một xã hội phải đương đầu với khó khăn, thách thức gay gắt là điều tối quan trọng. Vấn đề then chốt hiện nay là “liều thuốc giải cứu” phải được “rót” đúng chỗ, mà đối tượng cần ưu tiên hàng đầu là hàng vạn doanh nghiệp nhỏ và vừa đang vật vã trong cơn bĩ cực. Nếu các quan hệ thân quen mạnh hơn cơ chế thị trường, nếu các quan hệ thị trường bị thu hẹp bởi sự can thiệp hành chính đột ngột và cứng nhắc thì khó tránh khỏi sự “lịm dần” của các doanh nghiệp nhỏ và vừa khi họ không còn đủ sức chịu đựng gánh nặng về tín dụng, lãi suất, giá cả.
Nhìn sâu vào đời sống kinh tế-xã hội đất nước, nhìn rộng ra khắp hoàn cầu, khi cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu, dù đã có những ‘‘liều thuốc’’ giải cứu, vẫn chưa thấy lối thoát khả dĩ, rồi “Mùa xuân Ả-rập” đã phũ phàng vùi dập những niềm hy vọng về viễn cảnh tươi sáng với phồn vinh, dân chủ và tự do, để lộ nguyên hình là những “mùa xuân chết chóc”, loạn lạc và bế tắc... ta mới càng thấm thía hơn ý nghĩa và sức mạnh của niềm tin. Mọi cuộc đổ vỡ, trước hết là do niềm tin sụp đổ. Việc cứu chữa trồi sụt, bấp bênh là do niềm tin không được hồi phục. Kinh tế thế giới suy thoái là vậy, mà năm 2013, các nhà tài trợ nước ngoài vẫn cam kết viện trợ cho Việt Nam 6,5 tỷ USD. Cộng đồng quốc tế vẫn thấy Việt Nam là một thị trường sinh lợi, vẫn đặt niềm tin vào môi trường đầu tư ở nước ta. Niềm tin đó, trước hết là do họ nhận thấy Việt Nam có chế độ chính trị ổn định, người dân thân thiện, cần cù, đất nước quyết tâm hội nhập.
Càng thấm thía hơn, cho dù đất nước còn nghèo, nhiều người còn phải sớm tối bươn chải lo toan miếng cơm manh áo, nhưng giữ yên bờ cõi, bình an xã hội, êm ấm dưới những mái nhà là điều còn quý hơn vàng trong thời buổi biến động này. Trong khi ở nhiều quốc gia, niềm tin-thứ “tài nguyên đặc biệt”-đang dần cạn kiệt thì đối với Việt Nam, niềm tin luôn có sức mạnh vô địch, giúp chúng ta vượt qua muôn trùng thử thách.
Nhưng niềm tin không phải là hằng số, là định đề bất biến. Cần củng cố, bồi đắp niềm tin bằng những quyết sách đúng đắn và sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, hành động thực sự vì nước, vì dân, chặn đứng ngay “lợi ích nhóm”, khắc phục bằng được “tư duy nhiệm kỳ”, tạo chuyển biến thật sự trong trận chiến chống tham nhũng, lãng phí theo đúng tinh thần Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI.
Giữa không gian sôi động của công cuộc công nghiệp hóa-hiện đại hóa, cái đích đẹp nhất mà chúng ta nhắm tới vẫn là xây dựng con người, là xây dựng nền tảng văn hóa, tinh thần của xã hội, tất cả vì hạnh phúc của nhân dân. Giá trị vật chất không đủ để đắp xây hạnh phúc. Cảnh tượng hàng triệu người ở thủ đô Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Huế, Đà Nẵng và trên khắp mọi miền Tổ quốc náo nức đổ ra đường trong trật tự vào đêm Giao thừa Tết dương lịch 2013 vừa rồi đã vẽ nên hình ảnh sống động về một đất nước bình yên, một xã hội hòa kết. Nó càng cho thấy các giá trị văn hóa và tinh thần có một ý nghĩa đặc biệt thế nào trong tâm thức của người Việt, có thể tạo nên một sức mạnh đặc biệt thế nào trong công cuộc dựng xây và bảo vệ đất nước.
Trong mọi nguồn lực để phát triển, nguồn lực con người là quyết định nhất. Để đất nước vượt qua khó khăn thời khủng hoảng đòi hỏi ý chí, bản lĩnh, trí tuệ và tinh thần gắn kết của cả dân tộc. Những nhân tố đó, nếu được phát huy cao độ, chắc chắn sẽ tạo ra động lực lớn!
Nắng Xuân Quý Tỵ đã chiếu rọi khắp non sông. Con đường năm 2013 còn nhiều gập ghềnh gian khó. Nhưng, với niềm tin vượt khó, chúng ta quyết xốc lại đội ngũ trong cuộc kiến tạo lớn, gian lao mà chói sáng, đưa đất nước nhịp bước cùng thời đại.
Theo Hồ Quang Lợi
Quân đội Nhân dân