Bạn đọc viết
Mại dâm - nhìn nhận thế nào cho đúng và giải pháp
Tại hội nghị giao ban công tác phòng, chống tệ nạn xã hội năm 2015, do Bộ LĐ-TB-XH tổ chức ở TP.HCM hôm 21/8, một số ý kiến đề xuất nên lập quy hoạch gom các ngành nghề nhạy cảm dễ hoạt động mại dâm vào một khu để dễ quản lí, lí do là mại dâm hiện nay ngày càng tăng khó kiểm soát. Từ đó lại bùng lên nhiều ý kiến cho rằng nên hợp pháp hóa mại dâm, bên cạnh các ý kiến phản đối khác.
Sau khi tìm hiểu về tất cả các lí lẽ của các bên, người viết bài này tập hợp lại và xin đưa ra các góc quan sát làm sáng tỏ từng ý kiến như sau:
Trước hết, cần phải phân biệt rõ đặc điểm giữa mại dâm và tự do tình dục.
Lưu ý rằng mại dâm có bản chất là người ta phải làm cái việc đó vì cần tiền, tiền là mục tiêu của người ta, vì cần tiền mà người ta phải miễn cưỡng làm tình với những người mua dâm mà người ta chẳng có ham muốn gì. Trạng thái này cũng giống như 1 người bị cưỡng dâm vậy, phải miễn cưỡng làm tình vì đang ở trong tình trạng quẫn bách (rất cần tiền,..) hoặc chịu lệ thuộc về 1 mặt nào đó (chỗ ở, làm việc,..) với người muốn cưỡng dâm. Cho nên mại dâm là một tình trạng xâm phạm nhân phẩm gần giống như là cưỡng dâm vậy. Xâm phạm nhân phẩm là hành vi hạ thấp nhân phẩm của người khác bằng việc xâm phạm tự do thân thể, tự do tình dục, kéo nhân phẩm người khác xuống thấp dưới mức bình thường, được thể hiện ở các tội hiếp dâm, cưỡng dâm, làm nhục người khác...
Còn với tự do tình dục thì ngược lại, mục tiêu của người ta là tình dục chứ không phải là tiền, cho nên họ đến với nhau vì có ham muốn tình dục với nhau và vì thế đó là mong muốn của người ta chứ không phải miễn cưỡng như mại dâm vì cần tiền. Cho nên ở đó không có xuất hiện của tình trạng xâm phạm nhân phẩm.
Như vậy tự do tình dục tuy cũng có thể là các bên hoàn toàn xa lạ đến với nhau để làm tình như mại dâm, nhưng bản chất lại trái ngược với mại dâm.
Và như vậy mại dâm lại là hiện tượng xâm phạm đến quyền tự do tình dục, tức là xâm phạm đến nhân quyền.
Trong khi tự do tình dục là quyền con người bất khả xâm phạm,theo Tuyên ngôn toàn cầu về quyền tình dục tại Hội nghị thế giới lần thứ 14 về tình dục, tổ chức tại Hồng Kông, Trung Quốc, năm 1999. Cho nên khi người mua dâm dụ dỗ bằng một số tiền để người khác bán dâm, thì có nghĩa là quyền bất khả xâm phạm về tình dục (không vật chất nào mua được) của người bán dâm đã bị người mua dâm hạ thấp xuống chỉ bằng một số tiền (thực tế có khi chỉ từ một vài trăm nghìn đồng). Hiện tại Việt Nam đang cấm mại dâm thì dịch vụ tình dục có thể coi như là "hàng cấm", vậy mà do mại dâm vẫn lén lút hoạt động cho nên giá trị sở hữu tình dục đối với một người lạ chỉ là từ một vài trăm nghìn. Cho nên có một điều chắc chắn 100% rằng, khi mại dâm được hợp pháp không còn là "hàng cấm" nữa, thì phụ nữ (là chủ yếu) sẽ bị giảm giá trị đi rất nhiều, rẻ đến mức còn không bằng một vài trăm nghìn cho một lần sở hữu tình dục một phụ nữ. Ở đây đáng chú ý là mại dâm đã tách tình dục của con người ra khỏi tình cảm và biến tình dục của con người thành một bản năng sinh lí đơn thuần như bản năng sinh lí của động vật, người ta làm tình với nhau không phải vì có tình cảm mà chỉ vì bản năng tình dục như loài vật. Điều này giải thích tại sao nhân loại vẫn coi mại dâm là nghề hạ thấp nhân phẩm của con người.
Lưu ý là trong Tuyên ngôn toàn cầu về quyền tình dục năm 1999 không hề đề cập rằng tự do tình dục có hàm nghĩa là lao động tình dục (để kiếm tiền). Chú ý phân biệt "hoạt động tình dục" - vì nhu cầu tình dục, được đề cập trong tuyên ngôn khác với "lao động tình dục" - vì nhu cầu kiếm tiền , trong mại dâm. Cho nên đã loại trừ lập luận rằng lao động tình dục (mại dâm) là quyền được tự do tình dục như một số người đã nhầm lẫn.
Đã cho thấy việc cho phép hành nghề mại dâm lại có bản chất không phải là vì mục đích nhân đạo như người ta nhầm tưởng. Bởi chẳng có cái nhân đạo nào lại vẫn ép người ta phải phục vụ tình dục (không phải vì ham muốn) để đổi lấy những đồng tiền kiếm sống qua ngày. Đó ngược lại, lại là hành động vô nhân đạo bắt người ta phải đem đánh đổi nhân quyền (quyền tự do tình dục) của mình để có được những đồng tiền kiếm sống.
Mặc dù có thể người bán dâm sẵn sàng đem bán nhân phẩm của mình lấy tiền mà không cảm thấy nuối tiếc. Nhưng đó là nhận thức lệch lạc tự hạ thấp quyền con người bất khả xâm phạm của mình, cũng giống như nhận thức lệch lạc tự làm hại mình của người nghiện ma túy vậy. Cho nên nhà nước Việt Nam theo bản chất nhân đạo của một nhà nước XHCN có quyền can thiệp ngăn cản hành vi bán danh dự nhân phẩm của họ, giống như ngăn cản người nghiện ma túy vậy, mặc dù họ không đề nghị, như một số người lập luận cho rằng họ không mướn thì sao nhà nước lại xía vô.
Bởi xét hệ lụy thì người bán dâm sau này rất khó lập được gia đình hạnh phúc, vì hầu như không ai muốn lấy người làm nghề bán dâm. Ở đây việc làm nhân đạo đối với những người làm mại dâm chính là phải hỗ trợ cho họ về công ăn việc làm để bảo đảm tương lai xây dựng hạnh phúc gia đình của họ.Tốt hơn nữa thì hỗ trợ họ trực tiếp về tiền nong giúp họ khắc phục những khó khăn tai họa rủi ro trong cuộc sống, chứ không phải là tạo điều kiện để họ tiếp tục sa vào con đường bán tình dục để kiếm sống hơn nữa. Vì như vậy chẳng khác nào cung cấp cho người nghiện ma túy các điều kiện để tiếp tục nghiện, hay tạo điều kiện cho người hút thuốc lá tiếp tục hút thuốc lá, thì tuy là tạo điều kiện theo ý họ, nhưng thực ra đó không phải là giúp đỡ mà lại là làm hại họ.
Lưu ý trong trường hợp người ta làm tình vì ham muốn nhưng lại vẫn nhận tiền của bạn tình thì đó lại không phải là mại dâm, vì bản chất của việc này đã thay đổi là người ta đã được tự do thân thể , tự do tình dục hoàn toàn theo ý chí của người ta. Việc nhận tiền của bạn tình lúc đó không phải là phản ánh hoạt động mại dâm nữa mà là các bên tự nguyện cho nhau, không phải là đổi tiền lấy tình nữa. Để phân biệt được tình trạng này thì người ta cần phải chứng minh rằng họ đến với nhau mà không cần tiền của nhau.
Như vậy nhà nước Việt Nam cấm mại dâm còn là để bảo vệ quyền tự do thân thể và quyền tự do tình dục của công dân. Cho nên nhà nước đã đưa ra chế tài ngăn cản công dân vì hoàn cảnh kiếm tiền mưu sinh mà phải bán tự do thân thể, tự do tình dục để kiếm sống, vì đó là những quyền bất khả xâm phạm của công dân, tức là nhà nước bảo vệ nhân quyền. Để mục tiêu này được thực hiện đúng đắn, thì cần coi người làm mại dâm là đối tượng bị người mua dâm , người môi giới chăn dắt lợi dụng hoàn cảnh khó khăn hoạn nạn để ép họ phải bán thân đổi lấy đồng tiền kiếm sống. Và như vậy thì đối tượng bị nhà nước trừng phạt là người chăn dắt và người mua dâm chứ không phải người bán dâm lần đầu.
Tuy nhiên sau đó với những người bán dâm do lười lao động, biểu hiện bằng sự tái diễn mặc dù đã được hỗ trợ tạo công ăn việc làm, thì nhà nước lại có quyền có biện pháp ngăn chặn giáo dục họ, bởi nhà nước Việt Nam mặc dù là nhà nước dân chủ nhưng có vai trò dẫn đầu định
hướng các công dân của mình hướng tới chân - thiện - mỹ để thực hiện mục tiêu xây dựng xã hội văn minh, chứ không phải chạy theo những lối sống lệch lạc của công dân.
Ở đây cần phải thừa nhận rằng nhà nước chỉ bảo vệ những quyền lợi chính đáng của công dân. Cho nên việc những người lười lao động đi bán dâm để được hưởng thu nhập cao mà trốn tránh nghĩa vụ phải lao động xây dựng đất nước thì không có tính chính đáng nào để đòi hỏi nhà nước phải đứng ra bảo vệ họ chống lại sự áp bức của những kẻ bảo kê chăn dắt và chủ chứa, như lập luận của một số người đòi hợp pháp mại dâm để bảo vệ họ. Ngược lại, hành vi mại dâm diễn ra gây ảnh hưởng tâm lí lệch lạc đến thanh thiếu niên, người lớn trong xã hội, vợ chồng không chung thủy, nam nữ lười lao động quay sang bán tình dục, nam nữ sa đà vào mại dâm hơn là lập gia đình, cho nên luôn gây tác động xấu đến môi trường xã hội xung quanh. Vì vậy phải bị trừng phạt thích đáng, đủ sức răn đe.
Cần nhận thức rằng không bao giờ được coi những quyền bất khả xâm phạm của công dân lại có thể đem bán, chính vì vậy mà mại dâm không thể được coi là một nghề. Điều này cũng giải thích vì sao hàng nghìn năm nay dân tộc Việt Nam đã quyết không cam chịu phục tùng các dân tộc khác để đổi lấy cuộc sống hàng ngày, mà luôn đánh đuổi bất kì một thế lực ngoại xâm nào để bảo toàn danh dự nhân phẩm của mình.
Và mặc dù là nhà nước Việt Nam không cấm tự do tình dục, nhưng để định hướng xã hội tới văn minh, nhà nước vẫn cần tuyên truyền giáo dục ý thức công dân về đạo đức xã hội văn minh, để công dân thực hiện quyền tự do tình dục theo xu hướng tiến bộ của loài người chứ không như loài vật.
Lưu ý là tự do chỉ được cho phép diễn ra theo chiều hướng tích cực chứ không được theo chiều hướng tiêu cực, phá hoại sự tiến bộ văn minh của xã hội. Cho nên mặc dù là công dân được tự do tình dục với nhau nhưng không được theo hướng tiêu cực, như loạn luân bị coi là tội phạm, và các tự do tình dục tiêu cực khác kéo lùi giá trị đạo đức xã hội xuống thấp thì bị xã hội lên án tẩy chay, và nhà nước xem xét có chế tài.
Với đối tượng hiếp dâm, thì tâm lí lúc đó là đã bùng lên cơn dục vọng cần phải được thỏa mãn ngay khi nhìn thấy nạn nhân, cho nên lập tức hiếp dâm ngay nạn nhân mà không chịu đi tìm gái mại dâm để thỏa mãn. Hiếp dâm xong sau đó lại có trường hợp giết người diệt khẩu. Một số người cho rằng để an toàn cho người bị hiếp dâm tránh bị giết bịt đầu mối thì phải hợp pháp mại dâm. Thì chú ý là ở đây đối tượng giết người diệt khẩu là để che giấu tội hiếp dâm, vậy muốn đối tượng không phải làm vậy thì lại phải hợp pháp cả hiếp dâm.
Trong khi dân số cả nước ai cũng có ham muốn tình dục nhưng chỉ có rất ít người phạm tội hiếp dâm. Quan niệm xã hội về tự do tình dục, tự do bạn tình hiện nay đã khá thoáng, cho nên không ai bị hạn chế về tự do tình dục, bằng chứng là những mối quan hệ tình 1 đêm, những nhóm quan hệ tình dục bầy đàn xuất hiện khá nhiều. Đã cho thấy những người phạm tội hiếp dâm là do có tâm lí coi thường pháp luật, chứ không phải do không được đáp ứng nhu cầu tình dục trong xã hội này. Như vậy thì việc hợp pháp mại dâm cũng không hề thay đổi được tâm lí đòi được thỏa mãn ngay khi nhìn thấy nạn nhân của tội phạm hiếp dâm, thậm chí còn ngược lại, mại dâm được hợp pháp làm cho các đối tượng tội phạm hiếp dâm ngộ nhận rằng nhà nước đã dễ dãi hơn cho phép tự do tình dục rồi, thì hiếp dâm cũng chả sao, cùng lắm nếu bị phát hiện thì chỉ trả cho nạn nhân một vài trăm nghìn coi như mua dâm là xong. Điều này thật nguy hiểm, cho nên lập luận rằng hợp pháp mại dâm sẽ tránh được tội phạm hiếp dâm, là hoàn toàn lệch lạc. Hơn nữa xét về lí luận thì khi nhà nước để tránh một việc phạm pháp này lại đã cho thay thế bằng một việc phạm pháp khác, là đã chứng tỏ sự bất lực buông xuôi của nhà nước trước cái xấu, dẫn đến tiếp tay cho cái xấu. Đây thật là cơ hội ngàn vàng cho các thế lực đối đầu ra sức đả kích chế độ trong nhân dân, làm mất uy tín của nhà nước.
Về lịch sử hình thành mại dâm ở Việt Nam, thì được diễn ra như sau:Thời phong kiến không thấy có tài liệu nào nói đến mại dâm ở Việt Nam, trừ truyện Kiều của Nguyễn Du thì lại lấy cốt truyện bên Trung Quốc mà chuyển thể thành thơ. Như vậy do kết cấu làng xã với hệ thống tôn ti trật tự, quy chuẩn đạo đức và thuần phong mỹ tục, nên mại dâm ở Việt Nam không có sự hiện diện.
Đến thời Pháp thuộc, thực dân Pháp đã cho mại dâm xuất hiện với âm mưu làm suy đồi xã hội Việt Nam để dễ cai trị. Mại dâm bắt đầu được nói đến trên báo Phụ nữ tân văn ngày 12-12-1929.
Sau đó mại dâm ở Việt Nam đã lan tràn khắp các đô thị Pháp thuộc, với mô tả của các báo là tình trạng "lúc nhúc xóm bình khang, đầy rẫy phường bán phấn".
Thực dân Pháp hợp pháp hóa mại dâm trong xã hội đã làm nảy sinh hai loại gái mại dâm. Một loại có giấy phép hành nghề và phải nộp thuế cho chính quyền thuộc địa, một loại bán dâm chui mà báo chí thường gọi là loại "gái đi ăn mảnh", "gái lậu" (lậu thuế). Hầu hết gái bán dâm thời kì này không có giấy phép và tự kiếm khách.
Trước tình hình này, Đảng cộng sản Việt Nam đề ra chủ trương "chống chế độ đa thê, phản đối chính phủ Pháp duy trì và lợi dụng chế độ làm đĩ để thu thuế". Các báo Đảng và trên truyền đơn của Đảng thường đề ra các khẩu hiệu như: chống nạn mãi dâm và tuyên truyền vận động phụ nữ tham gia vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng một xã hội mới văn minh, bình đẳng.
Tại Hà Nội vào năm 1954 (trước khi Pháp rút đi), tài liệu cho thấy có khoảng 12.000 gái điếm làm việc trong 45 nhà chứa và 55 quán rượu, trong đó 6000 đã đăng ký với chính quyền. Sau 1954, mại dâm trở thành bất hợp pháp và bị loại trừ trên lý thuyết theo Điều 202 của Bộ luật Hình sự Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Tại miền nam Việt Nam, sau khi Pháp rút đi để lại tàn dư mại dâm, thì đến giai đoạn 1960-1975, hàng triệu lính viễn chinh Mỹ ào ạt đổ bộ vào Việt Nam vào thời chiến tranh Việt Nam.
Để "giúp vui" cho đạo quân viễn chinh, Mỹ - Thiệu cho phép mở cửa hàng loạt bar, phòng tắm hơi, hộp đêm, vũ trường và nhất là nhà thổ, hiện diện ở khắp Sài Gòn và quanh các cư xá Mỹ. Mại dâm - gọi lóng là "chợ heo" - được Việt Nam Cộng hòa công khai và hợp pháp hóa.
Ước tính toàn miền Nam năm 1975 có trên 200.000 gái bán dâm. So với số gái bán dâm trên toàn Việt Nam vào năm 2012 thì con số này cao gấp 7 lần, nếu xét về tỉ lệ dân số thì gấp 30 lần.
Chủ trương nói trên của Mỹ - Thiệu làm sa đọa, trụy lạc trong xã hội... đã gây ra biết bao thảm cảnh gia đình, bao nhiêu đổ vỡ hạnh phúc, bao nhiêu chuyện bi đát thương tâm, là một trong các nguyên nhân khiến chế độ Việt Nam Cộng hòa ngày càng mất lòng dân, cuối cùng sụp đổ hoàn toàn.
Giai đoạn 1975-1990, chính phủ Việt Nam đã hầu như quét sạch nạn mại dâm trên toàn quốc. Nhưng đến giai đoạn Đổi mới 1986 về sau với quá trình mở cửa ra bên ngoài phát triển kinh tế thị trường, mại dâm bắt đầu xuất hiện trở lại và phát triển nhanh chóng.
Như vậy đã cho thấy mại dâm ở Việt Nam có lịch sử hình thành là từ chế độ thực dân đế quốc phản động, sau này đã để lại tàn dư ở xã hội Việt Nam, và được bùng nổ là do xâm nhập văn hóa từ bên ngoài, chứ không phải từ nền văn hóa truyền thống của Việt Nam. Do đó không có chuyện mại dâm ở Việt Nam là xu hướng tất yếu của sự phát triển văn hóa xã hội Việt Nam, vì vậy càng không có lý do để công nhận đó là một nghề lao động chính đáng ở Việt Nam.
Xét về thực tiễn, thì mại dâm dễ dẫn đến hành vi bạo lực tình dục trong khi thực hiện, bởi tâm lí của nhiều người mua dâm là đã "mất tiền mua mâm thì đâm mâm cho thủng". Vì vậy khi mại dâm được hợp pháp tức là hành vi mua dâm cũng được hợp pháp cho nên hành vi bạo dâm sẽ phát triển rất mạnh vì thừa cơ mại dâm đã được hợp pháp. Điều này sẽ dẫn đến người làm nghề mại dâm bị xâm phạm thân thể danh dự hơn rất nhiều, bị thực hiện tội phạm làm nhục vì phải chiều các “thượng đế” mua dâm, tức là bị xâm phạm nhân quyền ngày càng trầm trọng.
Nếu không cấm được thì gom vào quản lí thu thuế, thì điều này có nghĩa nhà nước tuy vẫn coi mại dâm là tiêu cực nhưng vì không ngăn cản được nên bất lực đành buông xuôi đồng lõa với tình trạng tiêu cực này.
Như vậy ý tưởng này thật nguy hiểm với uy tín của nhà nước. Đảng và nhà nước CHXHCNVN luôn chăm lo bảo vệ những quyền bất khả xâm phạm của công dân, thì không thể nào lại buông xuôi đồng lõa trước một tình trạng tiêu cực, bỏ mặc công dân của mình.
Việc gom các dịch vụ nhạy cảm vào với lý do để dễ quản lí, thì thực ra là đã không quản lí được nên đành dồn vào để thành hệ thống rộng lớn hoạt động kín đáo hơn tránh dư luận phanh phui lên án, chứ không phải để dễ quản lí như người ta nói, vì đã dồn vào thành hệ thống rộng lớn đan xen che chắn cho nhau rồi thì từ bên ngoài rất khó tập kích bắt quả tang mại dâm nên càng không thể quản lí được.
Và theo quy luật logic tự nhiên thì khi nạn mại dâm càng được hợp pháp thì mại dâm càng phát triển, không thể quản lí được, tất nhiên cũng làm gì có chuyện mại dâm chỉ chịu ở trong khu vực quy hoạch. Mại dâm càng phát triển thì nạn buôn người càng rầm rộ. Và khi mại dâm phát triển sẽ kéo theo bệnh AIDS phát triển. Điều này là quá rõ ràng, bởi hiện nay mại dâm đang bị cấm nên bị hạn chế rất nhiều mà còn tràn lan như vậy thì khi được dỡ bỏ điều cấm sẽ còn bùng nổ nhanh chóng lên rất tai hại. Như vậy ý tưởng gom để quản lí kiểm soát được là thất bại hoàn toàn.
Đối với hệ quả tới gia đình và xã hội. Thì khi mại dâm được chấp nhận sẽ kéo theo hoạt động mua bán tình dục ngày càng phổ biến. Mọi gia đình có các thành viên của mình đều có thể đi mua bán tình dục gây nên lối sống hoang dâm vô độ, đạo đức xã hội bị suy đồi. Khái niệm vợ chồng có nghĩa vụ phải chung thủy sẽ bị vô hiệu. Nề nếp gia đình, tôn ti trật tự xã hội bị phá vỡ khi ông bà bố mẹ mua bán dâm với những người đáng tuổi con cháu mình, thậm chí có trường hợp còn mua bán dâm nhầm phải người nhà mình khi lâu ngày xa cách không nhận ra nhau trongánh đèn đỏ.
Những người đề xuất và ủng hộ công nhận mại dâm là một nghề cũng phải chú ý rằng, họ cần lường trước đến một ngày nào đó chính họ và gia đình, họ hàng của mình lại phải chịu hệ lụy từ chính sách được họ đề xuất, cho thấy ý tưởng này thật là "gậy ông đập lưng ông".
Như vậy với nạn mại dâm đang bùng phát như hiện nay, thì việc hợp pháp mại dâm để cho mại dâm phát triển như vũ bão hơn, đã rõ ràng không phải là ý tưởng xây mà là phá. Cho nên nếu như làm đúng với bản chất xã hội chủ nghĩa của nhà nước Việt Nam, thì lại phải làm ngược lại. Tức là phải tiến hành mạnh mẽ đồng loạt các biện pháp phối hợp tổng thể mới chuyển biến tích cực dần dần hạn chế thấp nhất mại dâm.
Đó là triển khai đồng loạt các biện pháp như sau:
- Kiểm soát chặt mạng internet chặn đứng văn hóa phẩm đồi trụy qua hệ thống an ninh mạng đã làm rất tốt với việc chặn các trang web phản động.
- Tuyên truyền cảnh báo mạnh mẽ với cộng đồng về đại dịch AIDS tiềm ẩn trong tệ nạn mại dâm, vận động cộng đồng đấu tranh chống tệ nạn mai dâm và văn hóa phẩm đồi trụy.
- Tổ chức tốt nhiều trung tâm giới thiệu việc làm cho thanh thiếu niên, đồng thời tuyên truyền mạnh trong thanh thiếu niên về việc làm mại dâm sẽ gây hậu quả rất nặng nề cho việc lập gia đình hạnh phúc của người làm mại dâm.
- Tăng cường truy bắt ngăn chặn mại dâm, công khai danh tính những người tái phạm việc mua bán dâm, để họ nhận thức được thái độ của cộng đồng đối với hành vi mua bán dâm của họ.
- Thực hiện giáo dục và hướng nghiệp bắt buộc đối với người bán dâm.
- Tăng cường giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản cho thanh thiếu niên.
Khi đã thực hiện tốt các biện pháp đồng bộ như vậy thì chắc chắn tệ nạn mại dâm sẽ mất đi những nguyên nhân gây nên tệ nạn, từ đó mà mại dâm sẽ giảm dần.
Phạm Mạnh Hà
Sdt 0934325393