VKSND Tối cao kháng nghị quyết định bất thường của TAND TP Hồ Chí Minh
(Dân trí) - Viện KSND Tối cao vừa ra Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm (GĐT) số 36/2014/KN-KDTM đối với Quyết định số 35/2012/QĐDS-GĐT ngày 28/8/2012 của TAND TP Hồ Chí Minh. Vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại tòa nhà Master Building (41-43 Trần Cao Vân, phường 6, quận 3, TPHCM) đến nay đã kéo dài hơn 5 năm, tưởng đi vào "ngõ cụt" bởi một quyết định bất thường của TAND TP Hồ Chí Minh.
Trước đó, trong đơn khiếu nại, tố cáo khẩn cấp gửi đến báo Dân trí và các cơ quan chức năng, bà Lê Thị Trúc Mai, Giám đốc Công ty TNHH Xây dựng và Kinh doanh nhà Kim Long (gọi tắt là Công ty Kim Long) phản ánh: Ông Trần Văn Sự - Phó Chánh án TAND TPHCM đã ban hành Quyết định kháng nghị số 01/2012/QĐKN-KDTM-GĐT ngày 16/8/2012 và Quyết định Giám đốc thẩm số 35 ngày 28/8/2012 có dấu hiệu trái quy định pháp luật, gây thiệt hại nghiêm trọng quyền lợi của Công ty Kim Long thời gian qua.
Tháng 5/2005, Công ty Kim Long ký Hợp đồng hợp tác kinh doanh với Công ty CP Dược phẩm TW25 để xây dựng - khai thác tòa nhà Master Building tọa lạc tại số 41- 43 Trần Cao Vân, phường 6, quận 3 Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi Công ty Kim Long hoàn tất các công việc xây dựng lại tòa nhà để kinh doanh theo hợp đồng ký với Công ty CP Dược phẩm TW25, Công ty Kim Long được toàn quyền khai thác, cho thuê tòa nhà (trừ lại 350m2 thuộc quyền sử dụng của Công ty CP Dược phẩm TW25).
Ngày 5/12/2007, Công ty Kim Long và Công ty Hợp Nhất đã ký hợp đồng số 05/HĐ - Uniland và ngày 21/3/2009 ký Phụ lục hợp đồng số 03. Theo đó, Công ty Kim Long cho Công ty Hợp Nhất thuê lại toàn bộ tòa nhà Master Building tại 41- 43 Trần Cao Vân (trừ lại 350m2 thuộc quyền sử dụng của Công ty CP Dược phẩm TW25) trong thời hạn 28 năm. Ngày 3/4/2009, Công ty Kim Long bàn giao nhà cho Công ty Hợp Nhất và tiền thuê nhà được tính từ ngày 1/4/2009.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty Hợp Nhất đã có những vi phạm các cam kết trong hợp đồng, cụ thể: Công ty Hợp Nhất không thanh toán tiền thuê nhà đúng hạn; thanh toán không đầy đủ tiền thuê nhà 2 quý liên tiếp là quý 3 và quý 4/2009. Tính đến thời điểm Công ty Kim Long khởi kiện, Công ty Hợp Nhất còn thiếu tiền thuê nhà quý 3/2009 là 76.000 USD, thiếu tiền thuê nhà quý 4/2009 là 147.000 USD; Không nộp tiền vào quỹ “sửa chữa lớn” và tiền thu nhập từ quảng cáo; sử dụng không đúng mục đích nhà cho thuê, tự ý sửa chữa lớn diện tích nhà để làm nhà hàng; không đóng tiền bảo hiểm phòng cháy chữa cháy.
Những vi phạm và sai phạm của Công ty Hợp Nhất trong việc thực hiện hợp đồng thuê nhà đã được Công ty Kim Long nhắc nhở rất nhiều lần bằng văn bản, nhưng Công ty Hợp Nhất không sửa chữa, khắc phục và chấm dứt việc vi phạm. Do đó, Công ty Kim Long đã khởi kiện yêu cầu Tòa án chấm dứt hợp đồng thuê nhà giữa Công ty Kim Long và Công ty Hợp Nhất; buộc Hợp Nhất phải mất tiền đặt cọc, phải trả tiền thuê nhà còn thiếu và phải giao lại tòa nhà này cho Công ty Kim Long, buộc Công ty Hợp Nhất phải công khai lợi nhuận từ quảng cáo và chi trả Công ty Kim Long 50% thu nhập từ quảng cáo; buộc Công ty Hợp Nhất phải cung cấp chứng từ thu từ phí dịch vụ để xác định số tiền Công ty Hợp Nhất phải nộp vào quỹ “Sửa chữa lớn” và nộp 5% vào tài khoản.
Ngày 20/1/2012, Tòa án quận 3 TPHCM đã đưa vụ án ra xét xử theo trình tự sơ thẩm vụ “tranh chấp hợp đồng thuê nhà” giữa Công ty Kim Long (nguyên đơn) và Công ty Hợp Nhất (bị đơn). Sau khi xem xét kỹ lưỡng hồ sơ và những tài liệu liên quan, HĐXX tuyên chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bên nguyên đơn là Công ty Kim Long. Buộc Công ty Hợp nhất và các đơn vị đang thuê tại tòa nhà Master Building giao trả lại toàn bộ diện tích, cùng toàn bộ tài sản gắn kèm cho Công ty Kim Long; Buộc Công ty Hợp Nhất phải toàn bộ tiền thuê nhà còn thiếu theo hợp đồng đã ký kết cho đến khi Công ty Kim Long nhận toàn bộ diện tích đã bàn giao cho Công ty Hợp Nhất.
Không đồng tình với nội dung bản án sơ thẩm số 01/2012/KDTM-ST của Tòa án quận 3, Công ty Hợp Nhất đã làm đơn kháng cáo toàn bộ bản án nêu trên. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm diễn ra tại TAND TPHCM, Công ty Hợp Nhất có đơn xin rút toàn bộ kháng cáo. Vì vậy, HĐXX Tòa án TPHCM đã ban hành Quyết định số 702/2012/QĐPT - KDTM ngày 22/6/2012 về việc đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án kinh doanh thương mại. Bản án sơ thẩm số 01/2012/KDTM-ST của TAND quận 3 có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ban hành Quyết định số 702/2012/QĐPT - KDTM ngày 22/6/2012.
Theo đại diện của Công ty Kim Long cho hay: Sau khi Tòa án TPHCM ban hành Quyết định số 702/2012/QĐPT - KDTM ngày 22/6/2012 về việc đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án kinh doanh thương mại không có đương sự nào của vụ án, không có cơ quan, cá nhân, tổ chức nào có đơn đề nghị Giám đốc thẩm sơ thẩm bản án số 01/2012/KDTM-ST của TAND quận 3, cũng như Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm của Tòa án TPHCM. Nhưng đúng 54 ngày sau, ông Trần Văn Sự - Phó Chánh án Tòa án TPHCM bất ngờ ban hành Quyết định kháng nghị Giám đốc thẩm số 01/2012/QĐKN - KDTM-GĐT ngày 16/8/2012 đối với Bản án sơ thẩm số 01/2012/KDTM-ST của TAND quận 3 mà không đưa ra được căn cứ cụ thể.
Ngày 16/8/2012 ông Trần Văn Sự ký Quyết định kháng nghị Giám đốc thẩm số 01/2012/QĐKN - KDTM-GĐT đối với Bản án sơ thẩm số 01/2012/KDTM-ST của TAND quận 3. Đúng 12 ngày sau đó, Ủy ban Thẩm phán Tòa án TP HCM đã họp và ban hành Quyết định Giám đốc thẩm số 35/2012/QĐDS - GĐT ngày 28/8/2012 tuyên hủy Bản án sơ thẩm số 01/2012/KDTM-ST của TAND quận 3, giao hồ sơ cho TAND quận 3 xét xử lại theo trình tự sơ thẩm.
Sự việc tưởng đi vào bế tắc nhưng sau khi xem xét hồ sơ, căn cứ vụ việc, Viện KSND Tối cao vừa ra Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm (GĐT) số 36/2014/KN-KDTM đối với Quyết định số 35/2012/QĐDS-GĐT ngày 28/8/2012 của TAND TP Hồ Chí Minh.
Tại Kháng nghị GĐT số 36, Viện trưởng Viện KSND tối cao đã quyết định: “Kháng nghị GĐT đối với Quyết định GĐT số 35/2012/QĐDS-GĐT ngày 28.8.2012 của Tòa án ND TPHCM. Đề nghị Tòa Kinh tế Tòa án ND tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy Quyết định GĐT nêu trên. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 01/2012/KDTM-ST ngày 20.1.2012 của Tòa án ND quận 3”.
Căn cứ để Viện KSND tối cao kháng nghị là: Xét về nội dung bản án sơ thẩm số 01/2012/KDTM-ST ngày 20.1.2012 của Tòa án ND quận 3 xét xử là có căn cứ và đúng pháp luật. Các căn cứ để Tòa án ND quận 3 đã xét xử và ra quyết định đã được phân tích rõ ở bản án sơ thẩm.
Kháng nghị số 36 của Viện KSND tối cao cũng nêu rõ 6 điểm mà Tòa án ND TPHCM cho là Tòa án ND quận 3 vi phạm để làm căn cứ kháng nghị và hủy bản án sơ thẩm của Tòa án ND quận 3 là “không có căn cứ” và “không đúng sự thật”.
Chẳng hạn, Tòa án ND TPHCM cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa 3 Cty (Cty CP đầu tư tư vấn thương mại Tiến Thắng, Cty TNHH tìm kiếm tài năng Việt; Cty TNHH Việt Phát Tiến) vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là vi phạm. “Thực tế lúc đó 3 Cty không thuê ở tòa nhà này. Việc này đã được CA phường, Sở KHĐT, Phòng Kinh tế quận 3 xác minh, không có 3 Cty trên. Như vậy, Tòa án ND TPHCM đưa ra căn cứ này là không đúng sự thật”…
Dân trí sẽ tiếp tục thông tin sự việc đến bạn đọc.
Anh Thế