Từ vụ gã nghiện sát hại CSCĐ: Vì sao "ngáo đá" không được miễn trách nhiệm?

Hoàng Diệu

(Dân trí) - Theo luật sư, người phạm tội trong tình trạng mất nhận thức do sử dụng chất kích thích không thuộc trường hợp miễn trách nhiệm hình sự. Do đó, đối tượng nghi "ngáo đá" vẫn có thể bị xử lý.

Như Dân trí thông tin, sáng 3/3, Công an phường 7 (TP Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) tới nhà Dương Hữu Trí (38 tuổi, đối tượng bị quản lý ma túy tại nhà) để kiểm tra, mời Trí về phường xét nghiệm ma túy theo kế hoạch. Tuy nhiên, Trí không chấp hành và đuổi chém lực lượng chức năng. 

Công an phường 7 đã tăng cường lực lượng khác đến hiện trường để đưa Trí về trụ sở nhưng đối tượng không chấp hành, dùng dao đâm vào ngực anh N. (24 tuổi, chiến sĩ Cảnh sát cơ động) rồi đốt xe, cố thủ tại nhà. Sự việc khiến chiến sĩ CSCĐ bị trọng thương, sau đó tử vong tại bệnh viện. 

Theo người dân, tại thời điểm gây án, Trí có biểu hiện bất thường, không tỉnh táo, nghi "ngáo đá". Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đang lấy lời khai đối tượng để xác minh hành vi có dấu hiệu giết người và chống người thi hành công vụ. 

Từ sự việc trên, nhiều người đặt câu hỏi về việc trong trường hợp người nghi "ngáo đá" mất nhận thức và thực hiện hành vi phạm tội, có thể áp dụng chế tài xử lý ra sao theo quy định pháp luật? 

Từ vụ gã nghiện sát hại CSCĐ: Vì sao ngáo đá không được miễn trách nhiệm? - 1

Đối tượng Dương Hữu Trí (Ảnh: Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu).

Luật sư Hoàng Trọng Giáp (Giám đốc Công ty Luật Hoàng Sa, Đoàn Luật sư TP Hà Nội) cho biết theo quy định của pháp luật hiện hành, chưa có định nghĩa chính xác cho khái niệm "ngáo đá". Tuy nhiên, trong giao tiếp hàng ngày, đây là một thuật ngữ thường được áp dụng để ám chỉ những người rơi vào trạng thái loạn thần, hoang tưởng, ảo giác, mất khả năng kiểm soát cảm xúc, nhận thức và hành vi do sử dụng ma túy hoặc các chất kích thích. 

Đối với trường hợp người nghi "ngáo đá" phạm tội, Điều 13 Bộ luật Hình sự 2015 có quy định như sau: "Người phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác, thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự". 

Ngoài ra, Điều 21 Bộ luật này quy định về tình trạng người không có năng lực trách nhiệm hình sự như sau: "Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự". 

Đối chiếu các quy định của pháp luật, một người được coi là mất năng lực trách nhiệm hình sự chỉ khi họ thuộc trường hợp đang mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi. Với trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội mất năng lực hành vi do hệ quả của việc sử dụng rượu bia hoặc chất kích thích mạnh khác, đây không thuộc trường hợp miễn trách nhiệm hình sự. Người phạm tội do đó vẫn phải chịu các chế tài xử lý theo quy định của pháp luật. 

"Người phạm tội không thể lấy lý do sử dụng rượu bia, chất kích thích để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình bởi trước khi sử dụng các chất kích thích đó, họ phải ý thức được những hậu quả có thể xảy ra. Ngoài ra, pháp luật cũng không quy định miễn trừ hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho trường hợp này. Bởi vậy, cơ quan chức năng có đủ cơ sở để tiếp tục xử lý theo quy định của pháp luật. 

Đối với trường hợp này, công an sẽ tiến hành giám định để xác định Trí có bị các bệnh về tâm thần dẫn tới mất nhận thức hoặc khả năng kiểm soát, điều khiển hành vi hay không. Nếu không, đối tượng vẫn có thể bị xử lý về các hành vi có dấu hiệu của tội Giết người và Chống người thi hành công vụ", luật sư bình luận.