Hà Nội:

Tòa bác đơn khởi kiện vụ tranh chấp chung cư Làng Việt kiều châu Âu

(Dân trí) - Theo nội dung bản án số 14/2012/DS-ST ngày 28/9/2012 của TAND quận Hà Đông, Hội đồng xét xử quyết định bác đơn khởi kiện của bà Nguyễn Thị Thoa đối với Công ty TSQ Việt Nam trong vụ tranh chấp hợp đồng kéo dài tại dự án Làng Việt kiều châu Âu.

Ngày 28/9/2012, TAND quận Hà Đông, TP. Hà Nội đã mở phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ tranh chấp hợp đồng mua bán căn hộ giữa bà Nguyễn Thị Thoa trú tại số 29, ngõ 2, đường Tô Hiệu, quận Hà Đông và Chủ đầu tư dự án làng châu Âu, Công ty TSQ Việt Nam địa chỉ LK - 6D, khu đô thị Mộ Lao, quận Hà Đông.

Theo diễn trình sự việc, ngày 29/7/2009, Công ty TSQ Việt Nam đã ký hợp đồng bán căn hộ số 414/HĐBCC-TSQ. Quá trình thực hiện, giữa bà Thoa và Công ty TSQ đã phát sinh tranh chấp liên quan đến việc thực hiện điểm a khoản 3.2 Điều 3 của hợp đồng. Căn cứ theo điều khoản này, theo mỗi đợt nộp tiền, Công ty TSQ đều ra thông báo yêu cầu bà Thoa nộp tiền do chênh lệch tỷ giá giữa đô la Mỹ . Quá trình thực hiện, bà Thoa đã nhiều lần gửi văn bản đến Công ty TSQ phản đối yêu cầu trên của Công ty TSQ. Ngày 20/10/2011, bà Nguyễn Thị Thoa làm đơn khởi kiện Công ty TSQ yêu cầu vô hiệu điểm a khoản 3.2 Điều 3 của hợp đồng; yêu cầu bàn giao nhà theo điểm 6.1.1 khoản 6.1 của hợp đồng bán căn hộ số 414/HĐBCC-TSQ ngày 29/7/2009.
 
Bản án sơ thẩm của TAND quận Hà Đông
Bản án sơ thẩm của TAND quận Hà Đông

Sau khi nghiên cứu hồ sơ và giấy tờ liên quan giữa các bên cung cấp, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định:

Tại phiên tòa, nguyên đơn thừa nhận việc ký kết hợp đồng bán căn hộ với Công ty TSQ Việt Nam trong trạng thái tinh thần thoải mái, không ai ép buộc và được đọc hợp đồng trước khi thỏa thuận và chỉ yêu cầu vô hiệu đối với điểm a khoản 3.2 Điều 3 của hợp đồng, không yêu cầu vô hiệu đối với toàn bộ hợp đồng.

Đối với yêu cầu của nguyên đơn, HĐXX thấy rằng, theo Điều 22 của Pháp lệnh ngoại hối, Điều 29 của Nghị định 160/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 của Chính phủ quy định: “trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo của người cư trú , người không cư trú không được thực hiện bằng ngoại hối”. Tại điểm a khoản 3.2 Điều 3 hợp đồng bán căn hộ giữa bà Nguyễn Thị Kim Thoa và Công ty TSQ Việt Nam quy định “Phát sinh hợp đồng được tính tăng hoặc giảm nếu mức điều chỉnh biên độ tỷ giá giữa đô la Mỹ và đồng Việt Nam công bố tăng hoặc giảm 2% so với thời điểm ký hợp đồng”. Như vậy, điều khoản này của hợp đồng không thể hiện sự thỏa thuận về giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo bằng ngoại tệ hay ngoại hối.

Theo điều khoản này của hợp đồng được coi là đã xác định điều kiện để các bên tham gia hợp đồng thỏa thuận xác định lại giá trị hợp đồng bằng đồng Việt Nam khi điều kiện phát sinh. Phía bị đơn trong quá trình thực hiện hợp đồng đã ra thông báo với người mua về giá trị phát sinh của hợp đồng bằng đồng Việt Nam lãi do nộp quá 70% giá trị nhà, hoặc không nộp đủ 70% giá trị nhà ở nếu các bên không có thỏa thuận về việc này.

Đối với yêu cầu của nguyên đơn buộc đơn vị bồi thường số tiền 122.733.748 đồng là tiền lãi phát sinh trên số tiền (820.056.720 đồng) bằng 70% giá trị hợp đồng mà nguyên đơn đã nộp nhưng không được giao nhà theo hợp đồng từ thời hạn phải giao nhà ngay theo quy định của hợp đồng và chỉ phải nộp nốt 10% giá trị căn hộ. Phía bị đơn cho rằng đã căn cứ vào điều khoản có hiệu lực của hợp đồng, nhiều lần ra thông báo xác định số tiền phát sinh phải nộp và thời hạn để hai bên ký phụ lục hợp đồng theo giá trị tăng lên của hợp đồng nhưng phía nguyên đơn không thực hiện vì vậy đơn phương chấm dứt hợp đồng với nguyên đơn theo quy định tại điểm 13.13 Điều 13; Điểm 13.2.3 của hợp đồng.

Tại phiên tòa, nguyên đơn vẫn đưa ra quan điểm không đồng ý trả số tiền phát sinh mà bị đơn yêu cầu căn cứ điểm a khoản 3.2 Điều 3 hợp đồng cũng như không đồng ý ký phụ lục hợp đồng mà bị đơn đưa ra. Yêu cầu bị đơn phải bồi thường số tiền lãi là 122.733.748 đồng do không giao căn hộ đúng hạn không được chấp nhận.

Tại phiên tòa, phía bị đơn đưa ra yêu cầu tự nguyện trả lại nguyên đơn số tiền đã trả để mua căn hộ là 1.056.056.720 đồng và đề nghị HĐXX chấp nhận trong quyết định của bản án. Xét thấy yêu cầu của bị đơn là tự nguyện và phù hợp pháp luật cần ghi nhận trong bản án.

Nguyên đơn phải chịu mức án phí dân sự sơ thẩm về tranh chấp dân sự có giá ngạch trên tổng số tiền đã yêu cầu bị đơn phải trả mà không được chấp nhận.

Từ những điều trên, HĐXX đi đến quyết định : “Căn cứ các điều 389, 410, 424, 426 của BLDS; Điều 22 của Pháp lệnh ngoại hối; các điều 131, 243, 245 của Bộ luật tố tụng dân sự; Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án xử:

Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Thoa.

Cụ thể, không chấp nhận yêu cầu tòa án tuyên vô điệu đối với điểm a khoản 3.2 Điều 3 của hợp đồng bán căn hộ số 414/HĐBCC-TSQ ngày 29/7/2009; không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn yêu cầu bị đơn tiếp tục thực hiện điểm 6.1.1 khoản 6.1 của hợp đồng bán căn hộ số 414/HĐBCC-TSQ ngày 29/7/2009 để bàn giao căn hộ theo hợp đồng bán căn hộ số 414/HĐBCC-TSQ trước ngày 31/12/2011 và chỉ có trách nhiệm trả nốt 10% giá trị căn hộ/giá trị hợp đồng theo hợp đồng bán căn hộ số 414/HĐBCC-TSQ vào thời điểm Công ty TSQ Việt Nam bàn giao căn hộ.

Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc Công ty TSQ Việt Nam phải thực hiện nghĩa vụ giao nhà trong hợp đồng bán căn hộ số 414/HĐBCC-TSQ ngày 29/7/2009; không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn đòi bị đơn phải bồi thường tổng số tiền là 198.766.695 đ.

Công ty TSQ Việt Nam đơn phương chấm dứt hợp đồng đối với hợp đồng bán căn hộ số 414/HĐBCC-TSQ ngày 29/7/2009 với bà Nguyễn Thị Thoa là đúng quy định của hợp đồng.

Chấp nhận sự tự nguyện của bị đơn (Công ty TSQ Việt Nam) trả cho nguyên đơn (bà Nguyễn Thị Thoa) số tiền là 1056.056720 đ đã trả cho công ty để thực hiện hợp đồng bán căn hộ số 414/HĐBCC-TSQ ngày 29/7/2009.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực, người được THA có đơn yêu cầu THA, ngưởi phải THA phải chịu lãi suất phát sinh trên số tiền chậm THA theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước quy định.

Bà Nguyễn Thị Thoa phải nộp 10.138.000 đ tiền án phí dân sự sơ thẩm, được trừ số tiền tám ứng án phí 200.000đ đã nộp theo biên lai thu tiện tạm ứng án phí số 000487 ngày 21/12/2011 và 2.737.000 đ đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 000684 ngày 24/5/2012 tại Chi cục THADS quận Hà Đông.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 luật THADS thì người được THADS, người phải THADS có quyền thỏa thuận THA, quyền yêu cầu THA, tự nguyện THA hoặc cưỡng chế THA theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật THADS; thời hiện THA được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật THA.

Đương sự, người đại diện của đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án”.

Báo Dân trí sẽ tiếp tục thông tin về vụ việc trên.

Vũ Văn Tiến - Ngọc Cương