Hà Nội:
Thủ đoạn “lật kèo” tráo trở trong vụ án ly hôn tại Đông Anh
(Dân trí) - Mặc dù đã ký vào biên bản thỏa thuận chia tài sản chung của hai vợ chồng, nhưng sau đó, bà Đỗ Thu Hà đã “lật kèo” những điều đã cam kết, ngụy biện cho rằng vì muốn việc ly hôn giải quyết được nhanh chóng, nên bà Hà đã “bỏ của chạy lấy người”.
Ông Nguyễn Mậu Tuân (xã Kim Nỗ, huyện Đông Anh), và bà Đỗ Thu Hà (phường Sài Đồng, quận Long Biên) đăng ký kết hôn ngày 18/01/2000 và có hai con chung là cháu Nguyễn Mậu Việt Long sinh ngày 24/7/1999 và cháu Nguyễn Mậu Long Việt sinh ngày 29/5/2005. Trong suốt thời gian chung sống, ông Tuân luôn là người chồng, người cha mẫu mực; dành hết thời gian cho việc làm ăn, học tập và chăm lo cho cuộc sống gia đình về mọi mặt. Tuy nhiên, khoảng đầu tháng 8 năm 2010, bà Đỗ Thu Hà "bỗng dưng" đòi đề nghị ly hôn với ông Tuân (?!).
Ngày 31/12/2010, Thẩm phán Nguyễn Thị Tuyết – TAND huyện Đông Anh ký Quyết định số 286/2010/QĐST-HNGĐ công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự:
Về con chung: Ông Tuân trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Mậu Việt Long; bà Đỗ Thu Hà trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Mậu Long Việt.
Về tài sản chung tôi và Đỗ Thu Hà đã thỏa thuận như sau: Ngày 23/12/2010, tại trụ sở TAND huyện Đông Anh, trước sự chứng kiến và hòa giải của bà Thanh - Thư ký, ông Tuân và bà Hà đã thỏa thuận tự phân chia tài sản chung, nghĩa vụ chung.
Sau khi thống nhất nguyên tắc phân chia, để giải quyết nhanh vụ việc ly hôn theo nguyện vọng của hai bên, ông Tuân và bà Hà cùng ra Văn phòng Công chứng Công Minh, số 1323 đường Giải Phóng, quận Hoàng Mai, TP. Hà Nội, để lập văn bản thỏa thuận chia tài sản chung.
Việc phân chia tài sản chung, nghĩa vụ chung của vợ chồng được thực hiện trên tinh thần tự nguyện, không bị lừa dối, không bị ép buộc; tại thời điểm thỏa thuận các bên có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và các bên hiểu rõ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình, ý nghĩa và hậu quả pháp lý của việc thỏa thuận; thỏa thuận được thực hiện trong một tổng thể, dựa trên nguyên tắc tổng thể các phần quyền và nghĩa vụ mỗi bên được hưởng và phải thực hiện là ngang nhau. Những tài sản nào có đầy đủ điều kiện về mặt pháp lý thì lập thành văn bản công chứng để tạo điều kiện cho việc làm thủ tục sang tên, tài sản nào chưa đủ điều kiện thì lập thành văn bản hai bên ký, lăn tay và có người làm chứng.
Theo thỏa thuận trên, ông Tuân được nhận toàn bộ quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với thửa đất số: 12b, tờ bản đồ số: 33, tại địa chỉ: thôn Đìa, xã Nam Hồng, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AE 734911, với điều kiện tôi phải thực hiện các nghĩa vụ sau:
Một là, ông Tuân phải thanh toán toàn bộ số tiền là 1.371.974.744 đồng và số tiền lãi quá hạn là: 19.422.635 đồng cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín- Chi nhánh Đống Đa (chưa bao gồm lãi phạt chậm trả).
Hai là, ông Tuân thay Công ty Việt Long thanh toán cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín- Chi nhánh Đống Đa số tiền là 4.065.218.814 đồng và số tiền lãi quá hạn là: 18.943.963 đồng (chưa bao gồm lãi phạt chậm trả).
Tại thời điểm lập Bản thỏa thuận do tài sản ông Tuân được chia đang thế chấp ở Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín - Chi nhánh Đống Đa theo hợp đồng thế chấp tài sản số: LD080210001/HĐTC ngày 21/1/2008 để bảo lãnh cho hai khoản vay nêu trên nên ông Tuân và bà Hà không thực hiện được việc công chứng mà chỉ thỏa thuận trước mặt những người làm chứng và ký tên, lăn vân tay.
Hai người làm chứng gồm bà Nguyễn Thị Phương Lan, Văn phòng Luật sư Hằng Nga, số 433 Kim Mã, phường Ngọc Khánh, quận Ba Đình, và ông Trương Tuấn Lương, Văn phòng Công chứng Công Minh, số 1323 đường Giải Phóng, quận Hoàng Mai, TP. Hà Nội.
Sau khi lập văn bản thỏa thuận trên, ông Tuân đã thực hiện đầy đủ các điều kiện theo Bản thỏa thuận và đến ngày 16/5/2011, ông Tuân đã thanh toán hết nợ với ngân hàng và giải chấp tài sản. Sau đó, ông Tuân đã nhiều lần, bằng nhiều hình thức (gửi văn bản, email, tin nhắn) yêu cầu bà Đỗ Thu Hà thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ Bản thỏa thuận để làm thủ tục sang tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Tuân nhưng bà Đỗ Thu Hà cố tình không thực hiện.
Ngoài việc cố tình không thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ biên bản thỏa thuận, bà Đỗ Thu Hà đã “lật kèo” ông Tuân bằng việc viết đơn khởi kiện về việc chia tài sản chung sau ly hôn với thửa đất số: 12b, tờ bản đồ số: 33, tại địa chỉ: thôn Đìa, xã Nam Hồng, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AE 734911 trên.
Kiến nghị Tòa án bác đơn yêu cầu chia tài sản
Trao đổi với PV Dân trí, luật sư Trương Anh Tú, Trưởng Văn phòng Luật sư Trương Anh Tú (Đoàn Luật sư TP. Hà Nội) cho hay: Việc chia tài sản chung vợ chồng được thực hiện trong một tổng thể, dựa trên nguyên tắc tổng thể các phần quyền và nghĩa vụ mỗi bên được hưởng và phải thực hiện là đồng đều nhau.
Thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng thực hiện trên tinh thần tự nguyện, không bị lừa dối, không bị ép buộc; tại thời điểm thỏa thuận các bên có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và các bên hiểu rõ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình, ý nghĩa và hậu quả pháp lý của việc thỏa thuận.
Do đó, ông Tuân có quyền kiến nghị TAND huyện Đông Anh bác đơn yêu cầu chia tài sản của vợ chồng sau khi ly hôn của bà Đỗ Thu Hà dựa trên các lý do:
Toàn bộ khối tài sản chung, nghĩa vụ chung của ông Tuân và bà Hà có trong thời kỳ hôn nhân đã được chia vào ngày 23/12/2010. (Cùng tham gia buổi thỏa thuận với bà Đỗ Thu Hà có 2 luật sư chuyên nghiệp tư vấn).
Bản thỏa thuận liên quan đến Quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với thửa đất số: 12b, tờ bản đồ số: 33, thôn Đìa, xã Nam Hồng, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AE 734911 do UBND huyện Đông Anh, cấp ngày 4/10/2006 mà ông Tuân được hưởng là thỏa thuận dân sự có điều kiện. Việc ông Tuân chưa thực hiện được thủ tục về mặt hình thức là do bà Đỗ Thu Hà cố tình không thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ Thỏa thuận này. Vì vậy, Tòa án hoàn toàn có cơ sở bác đơn yêu cầu chia tài sản của bà Hà trong vụ việc này.
Báo Dân trí sẽ tiếp tục thông tin về vụ việc trên khi có diễn biến mới.
Tổ PVĐT