Tư vấn pháp luật:

Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế

(Dân trí) - Ông bà tôi sinh được 5 người con: Chị cả đầu, đến bố tôi và sau đó là 2 em trai và một em gái của bố tôi, tất cả mọi người đã có gia đình.

Một người em trai út của bố tôi lập gia đình thì ông bà mua đất làm nhà riêng nhưng nay đã bán đi và vào Nam lập nghiệp. Còn người em trai còn lại của bố tôi thì khi lập gia đình thì có nhà vợ cho đất làm nhà, còn mảnh đất ông bà tôi ở thì bố tôi có chăm sóc ông bà và làm nhà cho ông bà ở. Nay, ông bà tôi đã mất nhưng không để lại Di chúc là cho ai. Sổ đỏ mang tên ông bà tôi chú tôi cầm và đòi chia mảnh đất đó làm 3: Ông bà 1 phần, bố tôi một phần, chú tôi một phần.

Hiện ngôi nhà vẫn để không chưa có ai ở, gia đình tôi đã di cư đi làm ăn xa, khi ông bà mất thì chú tôi có đòi tiền nhưng nhà tôi không đưa thì chú tôi có bảo cầm sổ lương của bố mẹ tôi, lương của 2 sổ lúc đó là khoảng 650.000đ thời điểm năm 1997, đồng thời còn đào đất ngay ở sân để làm gạch, vì lý do là bố mẹ tôi không đưa tiền chia đất.

Nhưng cho tới nay chú tôi lại đòi chia đất thì nhà tôi nên xử lý như thế nào, và có chia thì chia ra sao? Tôi xin chân thành cảm ơn Quý báo! (Lê Xuân Định, Email: hamatsnt55@gmail.com).

Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế - 1

Trả lời:

Theo thông tin bạn trình bày ông bà bạn đã mất trước năm 1997, nên cho đến thời điểm hiện tại đã hết thời hiệu yêu cầu chia thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật theo quy định tại điều  645 Bộ luật dân sự, cụ thể: “Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.”

Tuy nhiên nếu “Sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết.

- Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.

- Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung. (Theo quy định tại mục 2.4 phần I Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/08/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình).

Như vậy, vì tài sản để lại thuộc quyền sở hữu của ông bà bạn, nếu ông bà bạn không để lại di chúc, 5 người con thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông bà không có tranh chấp về hàng thừa kế, đều thống nhất di sản của người chết để lại chưa chia được thể hiện bằng văn bản thì căn nhà và đất mà ông bà bạn để lại chuyển thành tài sản chung của 5 người con và được chia theo quy định của pháp luật, mỗi người được hưởng một phần bằng nhau. Vì chú bạn đã lấy sổ lương và đóng gạch ở sân nên bố của bạn có thể yêu cầu tòa án giải quyết trừ đi kỷ phần chú được hưởng hoặc hoàn trả lại khoản tiền đã nhận (có thể yêu cầu tòa án tính lãi suất để hoàn trả gia đình bạn). Nếu một trong các đồng thừa kế (5 người con) có tranh chấp, không thống nhất được về di sản để lại, hàng thừa kế…thì không thể yêu cầu chia tài sản chung được và ai quản lý vẫn tiếp tục được quản lý.

Trong trường hợp tất cả các đồng thừa kế đều thống nhất về cách chia tài sản, không có tranh chấp thì họ có thể liên hệ với tổ chức hành nghề công chứng để tiến hành khai nhận và phân chia di sản thừa kế theo quy định tại điều 49, 50 Luật Công chứng năm 2006.

Luật sư Vũ Hải Lý

CÔNG TY LUẬT TNHH ĐẠI VIỆT

Địa chỉ: Số 335 Kim Mã - Ba Đình - Hà Nội

Điện thoại: 04 3 747 8888 – Fax: 04 3 747 3966

Hot-line: 093 366 8166

Email: info@luatdaiviet.vn

 Website: http://www.luatdaiviet.vn

Ban Bạn đọc