Bài 10:

“Om” tài sản trúng đấu giá 10 năm: Thi hành án kiểu “sống chết mặc bay”!

(Dân trí) - Việc trì hoãn bàn giao tài sản cho người trúng đấu giá từ năm 2004 tới nay là trái với quy định của pháp luật, đồng thời gây ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Các cơ quan chức năng cần xác định rõ sai phạm của từng cá nhân, tổ chức trong vấn đề này đồng thời có biện pháp xử lý nghiêm.

Như Dân trí đã đưa tin, liên quan đến việc bà Lê Thị Hồng Hạnh trúng đấu giá tài sản đã hơn 10 năm nhưng vẫn chưa được bàn giao tài sản mà nguyên nhân của việc chậm bàn giao là do ông Đào Xuân Mai - người cho rằng mình đã mua khối tài sản trước khi bán đấu giá - đã cản trở việc bàn giao. Cho tới nay, tài sản bà Hạnh mua trúng đấu giá đã bị phá huỷ toàn bộ, đồng thời gia đình ông Mai cũng đã xây mới công trình trên đất mà không hề bị bất cứ một cơ quan nào ngăn cản, xử lý.

Câu hỏi đặt ra là việc ông Mai đưa ra bằng chứng về việc nhà đất đã được ông Mai mua từ trước, trong khi việc bán đấu giá đã tiến hành xong, có phải là căn cứ hợp pháp để dừng việc bàn giao tài sản cho người trúng đấu giá hay không?

“Om” tài sản trúng đấu giá 10 năm: Thi hành án kiểu “sống chết mặc bay”! - 1

Người dân nộp hơn 80 triệu đồng sau khi trúng đấu giá tài sản từ năm 2002 nhưng sau 10 năm vẫn chưa được nhận bàn giao tài sản.

Người dân nộp hơn 80 triệu đồng sau khi trúng đấu giá tài sản từ năm 2002 nhưng sau 10 năm vẫn chưa được nhận bàn giao tài sản.

Đánh giá về vấn đề này, Luật sư Phan Thị Lam Hồng - Giám đốc Công ty Luật TNHH Đông Hà Nội cho rằng, để khẳng định tài liệu về việc mua bán nhà đất đó có phải là căn cứ để hoãn việc bàn giao tài sản đã bán đấu giá thành hay không, cần xem xét về giá trị pháp lý của các tài liệu này và quy trình xử lý của cơ quan thi hành án đối với các tài liệu mà ông Mai đã cung cấp, cụ thể như sau:

Thứ nhất, xét về tính hợp pháp của giấy tờ mua bán chuyển nhượng:

Theo hồ sơ vụ việc thì ngày 07/8/1999, Thi hành án dân sự huyện Đông Anh đã có Quyết định số 163/QĐ-TYC.THA về việc thi hành án theo yêu cầu, trong đó quyết định kê biên nhà đất tại số 14B - Tổ 1 - Khối 3C - Thị trấn Đông Anh để đảm bảo việc thi hành án. Kể từ khi có quyết định trên cho tới khi tổ chức cưỡng chế thi hành án để giao tài sản cho bà Hạnh ngày 10/11/2004, không có đơn từ nào từ phía gia đình ông Mai về việc tranh chấp tài sản liên quan.

Cho đến khi cơ quan Thi hành án dân sự huyện Đông Anh tiến hành cưỡng chế giao tài sản thì gia đình ông Mai đã tổ chức cản trở việc bàn giao tài sản. Và ngày 10/11/2004, ông Mai đã cung cấp Giấy chuyển nhượng nhà đất có xác nhận của địa chính và UBND xã Xuân Nộn ngày 20/6/1996 về việc vợ chồng bà Xuân, ông Dương (người phải thi hành án) đã bán tài sản cho mình. Xét về giá trị pháp lý của giấy tờ này có thể thấy rằng tất cả các hồ sơ, giấy tờ chưa đủ căn cứ để chứng minh ông Mai là chủ sở hữu hợp pháp của nhà đất đang tiến hành bàn giao cho bà Hạnh bởi:

Một là, trên Giấy chuyển nhượng ngày 20/6/1996 do ông Mai cung cấp cho thấy ông Mai nhận chuyển nhượng thửa đất số 101b, trong khi đó thửa đất mà bà Hạnh trúng đấu giá là thửa đất số 102. Cho tới nay không có bất cứ tài liệu nào chứng minh hai thửa đất này là một, vì vậy không có cơ sở để khẳng định thửa đất được cơ quan thi hành án kê biên, bán đấu giá chính là thửa đất đã được chuyển nhượng cho ông Mai năm 1996.

Hai là, căn cứ vào nội dung thể hiện trên Giấy chuyển nhượng ngày 20/6/1996 và thông tin được đề cập tới trong Văn bản số 283/VKS-P10 ngày 11/3/2005 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội thì việc chuyển nhượng có xác nhận của UBND xã Xuân Nộn vào ngày 05/6/1996. Ở đây có thể thấy rằng có điểm mâu thuẫn trong văn bản xác nhận của chính quyền địa phương đó là thời điểm xác nhận và cơ quan xác nhận. Giấy chuyển nhượng đề ngày 20/6/1996 trong khi đó ngày 05/6/1996 đã có xác nhận của UBND xã Xuân Nộn về việc chuyển nhượng. Vậy chính xác việc chuyển nhượng diễn ra vào thời điểm nào? Tại sao lại có xác nhận của chính quyền địa phương về một giao dịch trước cả thời điểm diễn ra giao dịch đó?

Bên cạnh đó, theo như tìm hiểu về thông tin được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của huyện Đông Anh thì thị trấn Đông Anh được thành lập ngày 13/10/1982 trên cơ sở 4 xã là: Xuân Nộn, Tiên Dương, Uy Nỗ và Nguyên Khê. Như vậy, vào thời điểm có Giấy chuyển nhượng đất cho ông Mai thì việc xác nhận phải thuộc về UBND thị trấn Đông Anh. Tuy nhiên, trên Giấy chuyển nhượng năm 1996 mà ông Mai xuất trình lại thể hiện UBND xã Xuân Nộn là cơ quan xác nhận cho việc chuyển nhượng.

Như vậy, qua những căn cứ trên cho thấy rằng giấy tờ về việc chuyển nhượng đất năm 1996 mà ông Mai cung cấp cho cơ quan thi hành án không phải là chứng cứ hợp pháp để chứng minh thửa đất tại số 14B - Tổ 1 - Khối 3C - Thị trấn Đông Anh đã được chuyển nhượng cho ông Mai trước khi bán đấu giá. Thậm chí có rất nhiều điểm còn bất hợp lý liên quan đến bộ giấy tờ này khiến chúng ta không khỏi đưa ra những nghi vấn đến mục đích của việc làm này.

Thứ hai, về việc giải quyết của cơ quan thi hành án khi nhận được đơn khiếu nại của ông Mai.

Tại điểm d khoản 1 mục IV Thông tư liên tịch số 12/2001/TTLT/BTP-VKSNDTC hướng dẫn như sau:

“…Trong các trường hợp kê biên tài sản, khi có tranh chấp phát sinh liên quan đến tài sản kê biên, thì cơ quan thi hành án phải giải thích cho những người có quyền và lợi ích liên quan đến tài sản về quyền khởi kiện ra Toà án trong thời hạn theo quy định chung. Nếu vụ việc được Toà án thụ lý, thì việc xử lý tài sản, đã kê biên chỉ được thực hiện sau khi quyết định giải quyết tranh chấp của Toà án có hiệu lực pháp luật.”.


Ngôi nhà 4 tầng xây trái phép trên đất công nhiên chiếm đoạt đã lọt qua tất cả sự kiểm soát, thách thức pháp luật của hệ thống chính quyền huyện Đông Anh.

Ngôi nhà 4 tầng xây trái phép trên đất công nhiên chiếm đoạt đã lọt qua tất cả sự kiểm soát, thách thức pháp luật của hệ thống chính quyền huyện Đông Anh.

Bên cạnh đó, tại mục 2 Phần VI Thông tư liên ngành số 981/TTLN ngày 29/9/1993 của TAND tối cao, VKSNDTC và Bộ tư pháp hướng dẫn thực hiện một số quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự cũng đã quy định rõ:

“2. Khi kê biên tài sản, nếu có tranh chấp về tài sản bị kê biên, thì chấp hành viên giải thích cho người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền, lợi ích liên quan đến tài sản tranh chấp về quyền khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự. Sau khi thụ lý đơn kiện, Toà án phải khẩn trương giải quyết tranh chấp về tài sản để việc thi hành án được tiếp tục, bảo đảm quyền lợi cho các đương sự.

Hết thời hạn ba tháng, kể từ ngày kê biên tài sản, mà không có người khởi kiện, thì tài sản bị kê biên được xử lý để thi hành án.”

Như vậy, theo quy định của pháp luật thì khi kê biên tài sản mà có tranh chấp thì chấp hành viên phụ trách vụ việc có trách nhiệm giải thích cho người đang có tranh chấp liên quan tới tài sản được quyền khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự. Nếu hết thời hạn 03 tháng kể từ ngày kê biên tài sản mà không có người khởi kiện thì tài sản bị kê biên phải được xử lý để thi hành án theo đúng quy định của pháp luật.

Xét trong vụ việc này, ngày 07/8/1999, Thi hành án dân sự huyện Đông Anh đã có Quyết định số 163/QĐ-TYC.THA về việc thi hành án theo yêu cầu; ngày 13/6/2001, chấp hành viên ban hành Quyết định cưỡng chế thi hành án số 03/THA. Sau đó, khi tổ chức cưỡng chế bàn giao nhà đất vào ngày 10/11/2004 thì mới xuất hiện việc khiếu nại của ông Mai. Nếu theo quy định trên thì tính từ thời điểm có quyết định kê biên cho tới khi bàn giao tài sản và có tranh chấp (bước cuối cùng trong quá trình thi hành án) đã là rất dài nhưng cơ quan thi hành án vẫn xem xét việc khiếu nại của ông Mai. Điều này nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên liên quan.


Đề nghị khởi tố vụ án liên quan đến sự việc bị phớt lờ!

Đề nghị khởi tố vụ án liên quan đến sự việc bị phớt lờ!

Như vậy, việc ông Mai đưa ra tài liệu chứng minh tài sản đã được bán đấu giá là tài sản của mình là không có cơ sở. Bên cạnh đó, cơ quan thi hành án cũng đã hướng dẫn để ông Mai thực hiện thủ tục khởi kiện tại Tòa án nhưng ông Mai không thực hiện. Theo quy định của pháp luật thì thời gian tạm dừng việc thi hành án để những người liên quan thực hiện việc khởi kiện chỉ là 03 tháng tính từ ngày kê biên. Tuy nhiên, quá thời hạn 03 tháng mà cơ quan thi hành án vẫn không phối hợp với các cơ quan, tiến hành bàn giao tài sản cho người trúng đấu giá là không đúng với quy định của pháp luật.

Đây thực chất là việc chiếm hữu bất hợp pháp và không có việc khởi kiện tại toà của các bên liên quan nên hoàn toàn không có căn cứ để hoãn thi hành án, hoãn việc giao tài sản bán đấu giá cho người mua trúng đấu giá. Việc cơ quan thi hành án dừng việc bàn giao tài sản kéo dài suốt hơn một thập kỷ qua là trái với quy định tại Pháp lệnh thi hành án năm 1993, các văn bản hướng dẫn Pháp lệnh thi hành án năm 1993 và trái với quy định tại Điều 74 Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền - lợi ích hợp pháp của công dân.

Bản án và Quyết định của Toà án năm 1999 đều đã tuyên xử lý nhà đất số 14 tổ 1 khối 3C, thị trấn Đông Anh của vợ chồng ông Dương để đảm bảo thi hành án. Sau đó, cơ quan thi hành án cũng đã xử lý tài sản của người phải thi hành án theo quyết định của Toà án. Tuy nhiên, việc trì hoãn bàn giao tài sản cho người trúng đấu giá từ năm 2004 tới nay là trái với quy định của pháp luật, đồng thời gây ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Các cơ quan chức năng cần xác định rõ sai phạm của từng cá nhân, tổ chức trong vấn đề này đồng thời có biện pháp xử lý nghiêm để hạn chế xảy ra vụ việc tương tự đồng thời đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình bà Hạnh theo đúng quy định của pháp luật.

Dân trí sẽ tiếp tục thông tin về vụ việc tới bạn đọc!

Anh Thế