Nghĩ suy qua một chuyến về thăm quê hương (Kỳ 2)

(Dân trí) - Tuy về thăm Tổ quốc chỉ có ba tuần, nhà giáo chuyên giảng dạy và nghiên cứu về lĩnh vực xã hội học- tác giả Nguyễn Huỳnh Mai cũng đã có 1 cái nhìn nhạy cảm đối với những vấn đề đặt ra cho quá trình phát triển và hội nhập của nước nhà.

Đó là những vấn đề nổi cộm về ô nhiễm môi trường, về tình trạng lộn xộn và thiếu an toàn trong giao thông cũng như những hiện tượng bất bình đẳng xã hội và sự thiếu hụt trong lương tâm nghề nghiệp; những “mặc cảm” không đáng có thể hiện ở hai thái cực “tự tôn” hay “tự ti”…
 
Sống còn trong làm ăn kinh tế

 

Đi từ Sài Gòn ra Hà Nội thấy bán buôn nhan nhản khắp nơi, nhất là bán buôn mà tôi gọi là thương mại nhỏ (hay thất nghiệp trá hình ?): một tủ với hai ba chục lon nước, vài loại bánh ... đã là một cửa hàng -  thương mại sống còn chứ không phải thương mại kinh doanh. Cửa hàng lại phục vụ hầu như suốt ngày và đêm (các chuyên viên về giấc ngủ xem số giờ ngủ của dân như một chỉ số của chất lượng sống – dân ta trung bình ngủ bao nhiêu giờ mỗi đêm ?)

 

Rất nhiều cửa hàng dịch vụ – từ sửa

Bài viết tranh luận của bạn về vấn đề này xin gửi đến Diễn đàn Dân trí qua địa chỉ e-mail: thaolam@dantri.com.vn

xe, hàng ăn uống, áo quần, vi tính, điện thoại đến du lịch, giấy tờ, ngân hàng, chuyển nhượng nhà đất... Còn sản xuất tiểu công nghệ hầu như vắng bóng. 

 

Dịch vụ thôi chưa đủ. Muốn cho kinh tế thực sự phát triển, ta còn cần cho ra đời nhiều sản phẩm cụ thể qua những hình thức kinh tế bền vững hơn là kiểu buôn bán một sớm một chiều.

 

Tiếc là chúng tôi không có dịp thăm các khu công nghiệp. Chỉ biết qua báo chí là mức sống của công nhân các khu công nghiệp còn khó khăn.

 

Khoảng cách giàu -nghèo: vài thí dụ tượng trưng

 

Các xe sang trọng trong thành phố và cái gánh khiêm tốn của người bán hàng rong. Có những người mặc những bộ cánh hàng hiệu giá cả nghìn đô la, có người khác vẫn còn mang đôi dép nhựa rẻ tiền...
 

Hình như trong ngôn từ cả ngoài phố và trong càc mối quan hệ giao tiếp nói chung, cách xưng hô cũng có sự phân biệt khác nhau : “Chị” hay “Anh” khi người đối diện làm lao động chân tay, còn  “Ông” và “Bà” khi nói chuyện với những người giàu sang và có bằng cấp cao.

 

Chưa kể đến những bát phở thịt bò Kobé hay nhà hàng Long Đình, chúng tôi vào một quán café trong khuôn viên bảo tàng Lịch sử : hóa đơn cho một ly kem và một cốc cà phê đã là 240.000 đồng . Thảo nào xung quanh chúng tôi khách toàn là dân ăn mặc sang trọng.  Còn nếu mua một một cây kem ngoài phố thì chỉ 7 - 10.000 đồng.

 

Lương tâm nghề nghiệp

 

Điển hình về lương tâm nghề nghiệp là chuyện một gia đình người bán mì ở Chợ Lớn, một gia đình từ ba thế hệ ông ngoại truyền, mẹ nối rồi con cái đi theo. Cả nhà đảm bảo tất cả các khâu sản xuất mì, nấu nước lèo chuẩn bị nguyên liệu, phục vụ thực khách cho đến việc lo bảo quản, vệ sinh. Họ không giàu nhưng ...sung sướng hạnh phúc khi nói về nghề nghiệp của họ. Ánh mắt họ ngời lên niềm tự hào của một công việc được thực hiện chu đáo.

 

Muốn có lương tâm nghề nghiệp thì trước nhất phải có ý thức về khái niệm nghề nghiệp của mình, biết mình đang làm gì, làm thế nào, làm cho ai, tại sao...

 

Trái lại, khi việc đi làm thu gọn vào chủ đích kiếm kế sinh nhai, lương tâm nghề nghiệp thành một khái niệm hoàn toàn vắng bóng. Một chiêu đãi viên hàng không vô lễ với khách, một tài xế taxi ăn gian đi vòng vo để được thêm tiền mà không nghĩ đến việc làm mất thì giờ của khách. Một nhân viên khách sạn chỉ săn sóc khách để được tiền trà nước. Một người bán hàng cân thiếu, hay nói thách để bắt bí người mua. Một nhân viên y tế hách dịch với bệnh nhân ... Đó là một vài thí dụ chúng tôi mắt thấy tai nghe trong thời gian về thăm nhà.
 
Nghĩ suy qua một chuyến về thăm quê hương (Kỳ 2) - 1

Xu hướng trọng ngoại cũng ... thịnh hành: cái “mác” Hàn Quốc, Mỹ ... được xem như là “thượng hạng”
là “đẳng cấp” từ áo quần, phong cách (Ảnh: www.thegioichame.com)

 

Ngày xưa, vấn đề lương tâm nghề nghiệp không cần thiết lắm vì trong cả một xã hội nông nghiệp tự cung, tự cấp, không có nhiều nghề. Thầy giáo và lương y được xã hội trọng vọng và vị thế đó “bắt” họ phải xử sự sao cho xứng đáng. Liên hệ xã hội lại được ràng buộc bởi tình người (thương người như thể thương thân), bởi  niềm tin nhân quả (làm tốt hầu để đức cho con) ...
 
Ở thôn quê, sự kiểm soát xã hội cao (mọi người đều biết nhau từ đời ông, đời cháu) nên tất cả ai cũng tử tế để giữ chữ tín. Bây giờ ở đô thị, cuộc sống xô bồ, mất liên hệ xã hội, tiền bạc nhiều khi cao hơn lễ nghĩa, mặc tình lừa gạt lẫn nhau nói chi đến lương tâm nghề nghiệp!

 

Hiện nay đòi hỏi lương tâm nghề nghiệp cũng khó: lương không đủ sống, vật giá cái gì cũng đắt đỏ, môi trường bon chen, tranh lấn. Lương trung bình cũa những người chúng tôi gặp là khoảng trên dưới 3 triệu mỗi tháng, thế nhưng chỉ riêng tiền đóng góp cho một trẻ ở tiểu học cũng đã hơn 1 triệu. “Bươn chải”, "lo toan", “giật gấu vá vai” là câu nói thường xuyên của một số người chúng tôi đã gặp.

 

Phía sau vấn đề lương tâm nghề nghiệp là cả một hệ đạo đức xã hội.

 

Mặc cảm tự ti và mặc cảm tự tôn

 

Một nghìn năm đánh giặc phương Bắc, gần một thế kỷ để thoát sự đô hộ của Pháp, ba mươi năm chống Mỹ ... Xưa và nay, người dân Việt Nam đều có nhiều lý do để hãnh diện về truyền thống của cha ông.

 

Thế nhưng mặc cảm tự tôn (tiếng Pháp complexe de supériorité hoặc khái niệm, theo xã hội học  ethnocentrisme – có nghĩa là xem văn hóa mình là tốt nhất, còn các văn hóa khác là thua kém) là một phản ứng có thể làm ta mù quáng, xem cái gì của mình cũng “hơn người” và từ chối các nhận xét khác, kể cả những nhận xét tích cực.

 

Mặc cảm này thường hiện hữu ở nơi đại đa số người có địa vị xã hội. Một giáo sư đại học về khảo cổ  từ chối không thấy những mất mát trong việc làm mới thay vì trùng tu di tích. Một thẩm phán bảo vệ hết mình việc tập trung hành pháp và tư pháp. Một nhạc sĩ lớn lên sau 1975  hết lòng ca tụng trào lưu tân nhạc hiện thời và bài bác nhạc thời trước ... Về báo chí, người đọc cảm thấy người viết năng nhấn mạnh những thành tựu hơn là viết về những thiếu sót...

 

Bên cạnh đó, xu hướng trọng ngoại cũng thịnh hành: những cái “mác” Hàn Quốc, Singapore, Mỹ ... được xem như là “thượng hạng” là  “đẳng cấp” từ áo quần, khăn trải giường, đồ gia dụng, bánh ngọt, rượu, mỹ phẩm... Rốt cuộc là : phải cao như Tây, phải trắng như người Hàn Quốc, phải nhuộm tóc đủ màu ... Hết rồi những ca ngợi cho tà áo trắng giản dị của nữ sinh Gia Long, hay cho mái tóc thề của các cô trường Đồng Khánh thủa nào...

 

Đi ra nước ngoài cũng là giấc mơ của một số người trẻ tôi gặp: ra nước ngoài để học, để học thêm, để kiếm sống, để đổi đời... Tại sao như vậy nhỉ ? Cuộc sống của người tha hương đâu phải là cuộc sống ở thiên đường. 

 

Tại sao phải so sánh? Tự tôn hay tự ti đều là mặc cảm cả, tức là ... có vấn đề. Tại sao ta không yên ổn sống với mình, bên cạnh người khác mà không bài ngoại hay vọng ngoại, tự ti hay tự tôn ?

 

Tạm kết luận

 

Vĩ mô hay vi mô, chuyện của xã hội hay chuyện của từng người. Ba tuần không cho phép chúng tôi biết hết hiện tình Việt Nam. Nhìn trở lại thời bao cấp cách đây hơn ba mươi năm, nước nhà đã đi những bước "bảy dặm". Đổi mới, mở cửa, kinh tế thị trường... đã mang lại nhiều thay đổi. Cái cần là phải tiếp tục cảnh giác với sự lạc quan một chiều để phúc lợi thật sự đến với mỗi người dân, nhất là cho những trẻ em hiện ở tuổi mầm non.

 

Tiềm năng của Việt Nam to lớn cả về tài nguyên thiên nhiên cũng như về khả năng nhân sự. Nhưng cần quản lý tốt để phát triển hài hòa và bền vững.

 

Chúng tôi trở về châu Âu, vẫn còn ấm tình người ở quê nhà, mặc dù trong lòng cũng còn trĩu nặng những lo lắng cho tương lai.

 

                                                        Nguyễn Huỳnh Mai
 (Liège, Bỉ)

 

LTS Dân trí Những ý kiến đóng góp chân thành ấy thể hiện tấm lòng của một trí thức kiều bào tuy sống xa Tổ quốc, nhưng luôn đau đáu nhớ về và nghĩ về cội nguồn đã sinh ra mình. Đồng thời luôn thiết tha mong muốn nước nhà ngày càng phát triển nhanh, bền vững và hài hòa hơn trên cơ sở biết nhận ra và kịp thời để khắc phục những mặt còn yếu kém. Nhất là quan tâm nhiều hơn đến phúc lợi của người dân, đặc biệt là trẻ em.
 
Chúng tôi chân thành cảm ơn tác giả.