Miếng ăn, chuyện nhỏ mà không nhỏ

Ăn là một hoạt động sinh tồn. Con người sinh ra là phải ăn, có no bụng rồi mới có thể hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá, nghệ thuật…

Lịch sử nhân loại cũng là lịch sử tìm kiếm, sản xuất, bảo quản, chế biến thức ăn. Miếng ăn luôn đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống văn hoá mỗi dân tộc.

Khi mới xuất hiện trên quả đất, con người dựa vào những thứ có sẵn trong tự nhiên làm nguồn thức ăn, chủ yếu bằng cách hái lượm, săn bắt. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, thức ăn được chia đều cho mỗi thành viên trong cộng đồng. Nguồn thức ăn dư thừa chính là nguồn gốc của sự phân chia giàu nghèo, đẳng cấp. Những cuộc đấu tranh giai cấp dẫn tới sự thay đổi của các hình thái kinh tế-xã hội. Các cuộc chiến tranh đều có nguồn gốc từ quyền lợi vật chất, nói nôm na là vì miếng ăn.

Bài viết tranh luận của bạn về vấn đề này xin gửi đến Diễn đàn Dân trí qua địa chỉ e-mail: thaolam@dantri.com.vn.

Khi nguồn thức ăn còn ít ỏi, cuộc sống khó khăn, người ta chỉ chú trọng về lượng, nhưng khi thức ăn đã dồi dào, người ta lại coi trọng chất, chú ý chế biến sao cho ngon miệng, đẹp mắt.... Đến nay, công việc chế biến món ăn đã trở thành một ngành công nghiệp khổng lồ, thậm chí được nâng lên tầm nghệ thuật - một nghệ thuật mang đậm bản sắc văn hoá các vùng miền, dân tộc. Miếng ăn là một hệ qui chiếu phản ánh nhiều mặt đời sống văn hoá, tư tưởng, phong tục…của cộng đồng. Có thể rất rõ điều đó qua kho tàng tục ngữ, thành ngữ, ca dao dân ca Việt Nam có đề cập đến miếng ăn.

Người Việt quan niệm muốn ăn thì phải làm:

Có làm thì mới có ăn

Không dưng ai dễ đem phần đến cho.

Hay đơn giản hơn là “muốn ăn thì lăn vào bếp”. Đó là một quan niệm về lẽ công bằng, thức ăn do lao động mà có, nên phải lao động mới có ăn - muốn hưởng thụ phải cống hiến, không thể có chuyện "ăn không ngồi rồi". Và hưởng thụ cũng tương đương với cống hiến: "làm nhiều ăn nhiều, làm ít ăn ít", "tay làm hàm nhai". Làm ít ăn nhiều, "siêng ăn nhác làm" thì sẽ dẫn đến hiện tượng cung không đủ cầu, miệng ăn núi lở, xã hội sẽ đói kém, tai hoạ. Do đó, người Việt đề cao thói quen tiết kiệm, phòng xa: “tích cốc phòng cơ”; “làm khilành, để dành khi đau”…

Thói lười nhác, hoang phí là nguyên nhân gây nên đói kém, nghèo khổ, bị người Việt phê phán rất mạnh mẽ: "Ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo, làm như mèo mửa", "ăn như thuyền chở mã, làm như ả chơi trăng" hay "Ăn no rồi lại nằm khèo. Nghe giục trống chèo bế bụng đi xem". Không bà mẹ chồng nào lại thích cô con dâu "ăn vụng như chớp”.

Nhân dân ta cũng lên án những kẻ "dây máu ăn phần", cướp công của người khác. Khi cảm thấy xã hội bất công, người dân than thở: "Trời ơi trời ở không cân. Kẻ ăn không hết người lần chẳng ra".

Bằng kinh nghiệm lao động và đấu tranh phong phú của mình, người Việt cho rằng chính những bất cập trong mối quan hệ "làm-ăn" là nguyên nhân của mọi bất công, ngang trái ở đời. Giai cấp thống trị trong xã hội cũ sống xa hoa, phè phỡn trên mồ hôi, nước mắt của những người lao động. Có những kẻ ăn không ngồi rồi lại ngồi mát ăn bát vàng, ăn trắng mặc trơn,còn những người bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, quanh năm đầu tắt mặt tối lại thiếu ăn thiếu mặc, bụng đói cật rét, cực khổ trăm bề. Vì vậy, nhân dân rất căm ghét những kẻ tham lam, gian dối, gọi chúng là lũ "ăn cướp cơm chim", "ăn tàn phá hại", "ăn chó cả lông", "ăn ngập mặt ngập mũi"… và cảnh báo chúng một cách nghiêm khắc "ăn mặn khát nước" (hoặc "đời cha ăn mặn, đời con khát nước") hay "ăn của chùa ngọng miệng", "tham thực, cực thân"…

Cách ứng xử với miếng ăn cũng thể hiện khí chất, tính cách, trình độ văn hoá của mỗi người: "Nam thực như hổ, nữ thực như miêu", "kẻ thích cá đồng nấu khế, người ưa cá bể nấu dưa". Người thanh nhã, ý tứ thì biết "Ăn trông nồi, ngồi trông hướng", hay "ăn hương, ăn hoa", kẻ thô thiển, tham lam thì "ăn như hùm đổ đó", "ăn tục, nói khoác", "ăn lấy được". Những kẻ khôn vặt "ăn thì chọn những miếng ngon. Làm thì chọn việc cỏn con mà làm" hay "Ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau"… luôn bị chê trách. Đúng là "ăn mỗi người mỗi nết, chết mỗi người mỗi tật". Vì vậy, các bậc cha mẹ luôn chú ý dạy con "Học ăn, học nói, học gói, học mở". Những cô gái được người yêu dẫn về ra mắt người nhà mà nấu ăn không ngon hay không biết nấu ăn dễ bị "mất điểm" một cách nghiêm trọng.

Miếng ăn nhiều khi thành ân nghĩa: "một miếng khi đói bằng một gói khi no" hay "ăn miếng ngọt, trả miếng bùi" - đây cũng là cách ứng xử thủy chung, có trước có sau, trái ngược với thái độ "ăn cháo đá bát", "ăn sung trả ngái" trơ trẽn, vô sỉ.

Người Việt có tính cộng đồng cao. Trong bữa ăn, các món thức ăn được múc ra bát đĩa và mọi người dùng chung, khác với nhiều nước phương Tây thức ăn được chia theo khẩu phần. Người Việt rất hay tổ chức ăn uống tập thể, coi ăn uống như một biểu hiện không thể thiếu được của tính cộng đồng, kể cả khi vui lẫn khi buồn. Không chỉ bữa ăn mà cả các hoạt động chế biến thức ăn, nấu nướng đều mang lại không khí vui vẻ, tình đoàn kết cộng đồng. Dĩ nhiên, hoạt động này cũng có mặt trái là sự lãng phí, tốn kém về thời gian, tiền của, cồng kềnh, mất vệ sinh…

Đối với mỗi gia đình, bữa ăn có đủ mặt các thành viên là một nhân tố quan trọng để củng cố tình cảm gia đình. Chúng ta thường nghe báo chí than phiền về lối sống công nghiệp với những bữa ăn trong nhà hàng, những món ăn nhanh (fast food) đang "giết chết" hạnh phúc gia đình.

Quả thật, miếng ăn ngỡ là chuyện nhỏ mà không nhỏ.

Trần Quang Đại
Tr­ường THPT Trần Phú, Đức Thọ, Hà Tĩnh

LTS Dân trí - Ăn là nhu cầu thiết yếu để duy trì sự sống. Cùng phát triển với con người, các món ăn, thức uống ngày càng phong phú, đa dạng, trở thành một bộ phận hữu cơ của nền văn hóa mang tính nhân văn và tính dân tộc sâu sắc mà chúng ta quen gọi là văn hóa ẩm thực.

Trong thời đại ngày nay, an ninh lương thực và an toàn thực phẩm là một vấn đề có tính toàn cầu, được mọi quốc gia quan tâm. Đấy vẫn là nhu cầu thiết thân số 1 đối với loài người.

Trình độ văn minh của con người càng tiến lên thì nhu cầu ăn ngày càng tinh tế hơn, không chỉ đáp ứng nhu cầu no bụng mà còn cần ngon miệng và đầy đủ chất dinh dưỡng; nhất là phải bảo đảm an toàn, không bị nhiễm các chất độc hại.

Mặt khác, phải quan tâm nhiều hơn đến bộ phận dân chúng còn nghèo, ăn vẫn chưa đủ no, mặc chưa đủ ấm. Vì vậy, Liên hiệp quốc đã xác định nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo là mục tiêu thiên niên kỷ, mà nước Việt Nam ta là một trong những quốc gia đi đầu trong việc thực hiện nhiệm vụ này.