“Có một bài ca không bao giờ quên...”
Có những được - mất trong cuộc đời riêng đã hòa quyện với niềm vui, nỗi đau chung để làm nên những khúc hát nồng ấm tình người tình đất nước.
Có những bài ca vừa sâu nặng một kí ức bi hùng, vừa bừng sáng niềm tin khát vọng không chỉ của thế hệ từng làm nên lịch sử trong chiến tranh vệ quốc, chống Mỹ.

Có những vui buồn không của riêng ai đã được nhạc sĩ Phạm Minh Tuấn hát lên với cả lòng mình, hát cho quê hương, cho đồng đội và những người thân yêu nhất của mình.
Hẳn ít ai biết rằng Phạm Minh Tuấn, người vẫn được coi là nhạc sĩ phương Nam với giọng nói cũng như những sáng tác “đặc sệt” chất Nam Bộ, lại sinh ở Campuchia: quê nội - Nam Định, quê ngoại - Hưng Yên.
Trong phong trào hướng về Tổ quốc cuối những năm 50, một ước nguyện ngày một lớn dần cùng cậu thiếu niên Việt kiều sinh ở Campuchia là: trở về chiến đấu! Chuyến trở về năm 1960 vào lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ bước sang giai đoạn quyết liệt, đã kéo dài hàng tháng trời với những đêm hành quân bí mật, chân rộp phồng, bụng đói mềm, vai đau nhức.
Nhận công tác ở đoàn Văn công giải phóng tại căn cứ R thuộc tỉnh Tây Ninh, chàng trai trẻ làm quen với mọi sinh hoạt của cuộc sống chiến khu: đốn gỗ cất nhà, đào giếng, làm rẫy, tải gạo, canh gác… và cả sốt rét nữa! Từ đây bắt đầu cuộc đời của một chiến sĩ, và cũng bắt đầu sự nghiệp của một nhạc sĩ mang tên Phạm Minh Tuấn - mật danh hoạt động ở chiến khu đã trở thành bút danh của một đời làm âm nhạc.
Dù “hát không hay, diễn không giỏi” như Phạm Minh Tuấn “tự đánh giá”, nhưng nhạc sĩ vẫn kiêm nhiệm mọi vai trò, từ nhạc công guitare đến ca sĩ, diễn viên, kể cả “kép” cải lương bất đắc dĩ khi không còn ai khác nữa thủ vai chính.
Liên tiếp trong những năm tháng không quên ấy là những chương trình nghệ thuật gấp rút phục vụ chiến dịch, những đêm hành quân đổ mồ hôi, xương máu nhưng thật ấm áp tình đồng đội, tình quân dân. Đây cũng là giai đoạn “ra quân” của “tân binh” Phạm Minh Tuấn trên mặt trận âm nhạc. Chàng tân binh ấy còn nhớ mãi cái cảm giác bàng hoàng ngọt ngào trong cuộc hành quân giữa rừng đêm giao thừa năm 1965, khi bất ngờ nghe bài hát “Qua sông” trên Đài Tiếng nói Việt Nam.
Trong khoảnh khắc tạm yên ắng giữa chiến trường, áp sát tai vào chiếc radio nhỏ bé để không bỏ sót từng nét luyến láy, chàng nhạc sĩ mới ngoài hai mươi tuổi, chưa một lần nhìn thấy Thủ đô Hà Nội, chẳng thể ngờ rằng bài hát chép tay của mình đã theo anh giao liên vượt Trường Sơn ra Bắc để chắp cánh cho một tên tuổi hoàn toàn mới mẻ trong làng ca khúc cách mạng. “Qua sông” được trao Giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu, tác giả đã đem toàn bộ số tiền thưởng đó mua đậu xanh và đường, nấu một nồi chè đãi cả đơn vị ăn mừng.
Thời không quên ấy không chỉ là những kỉ niệm đẹp tình người, mà còn là kí ức đau đớn, mất mát. Mất mát trong chiến tranh kể sao cho xiết. Bao lần nhạc sĩ phải đào huyệt tiễn đưa bạn bè giữa rừng già, và còn bao đồng đội khác không còn thân xác sau những trận mưa bom. Vết thương lớn nhất chẳng bao giờ lành là nỗi đau mất đứa con gái đầu lòng trong một lần đoàn cán bộ rơi vào ổ phục kích của địch.
Em bé mới năm - sáu tháng tuổi, cái tuổi thần tiên đáng lẽ phải được cười được khóc tự nhiên, vậy mà thiên thần nhỏ bé buộc phải lặng im để cứu nhiều sinh mạng khác, khi hiểm họa qua đi thì em bé bị ngạt đã quá lâu, chẳng bao giờ còn cất tiếng khóc cười được nữa.
Trong đau thương sóng gió, hàng loạt bài ca tràn đầy niềm tin và sức mạnh tinh thần vẫn cất lên trên mọi nẻo đường chiến dịch. Tận mắt chứng kiến hình ảnh hồn nhiên và dũng cảm của những thiếu nữ Sài Gòn tải đạn, cứu thương, dẫn đường cho quân giải phóng trong cuộc Tổng tiến công mùa xuân Mậu Thân, Phạm Minh Tuấn đã thực sự thăng hoa trong giai điệu Bài ca người nữ tự vệ Sài Gòn.

Lời bài hát được giao cho Lê Anh Xuân, song chưa kịp hoàn thành thì nhà thơ hy sinh. Phần lời còn lại được nhạc sĩ viết tiếp và ngay sau khi phát trên làn sóng Đài Phát thanh Giải phóng năm 1968, bài hát đã phổ biến trên khắp hai miền Nam Bắc.
Sau Hiệp định Paris, Phạm Minh Tuấn được cử ra Hà Nội học tại Trường Âm nhạc Việt Nam (nay là Nhạc viện Hà Nội). Sáng ngày 30-4-1975, nhạc sĩ cùng những người bạn từng ở chiến trường tụ tập trước cổng Trường nhạc ngóng chờ giờ phút lịch sử, và khi tin Sài Gòn giải phóng được phát qua Đài Tiếng nói Việt Nam, họ ôm lấy nhau mừng vui trong nước mắt.
Không khí rộn ràng của ngày nước non liền một dải, tâm trạng hân hoan của mỗi công dân Việt Nam đã ngập tràn trong ca khúc của Phạm Minh Tuấn. Hình ảnh con tàu mang sức trẻ mùa xuân xuôi Nam ngược Bắc đã mang lại cho tác giả Đường tàu mùa xuân giải A trong cuộc thi sáng tác về đề tài thống nhất đất nước.
Đất nước hôm nay không tiếng súng nhưng vẫn vang vọng dư âm của một thời bom đạn. Vẫn còn đó nỗi đau của người mẹ “ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ, các anh không về mình mẹ lặng im”( “Đất nước” - phổ thơ Tạ Hữu Yên). Chiến tranh đã qua đi mà lòng người chưa hẳn được yên ả, vẫn nhớ tháng ngày gót mòn hành quân hối hả, rau rừng ngọt bát canh suông, nhớ cái thuở mơ tiếng chim ca giữa hai trận càn, làm bạn cùng trăng và ôm súng ngắm sao khuya.
Quá khứ làm nên chiều sâu cuộc sống, quá khứ đem lại nụ cười hôm nay. Sau những khoảnh khắc lãnh đạm với quá khứ, ta lại ray rứt tự vấn lòng mình: “Sao tôi quên...” - sao nỡ quên những người đã ngã xuống, sao có thể quên những khúc ca bi tráng năm nào. Và “Bài ca không quên” đã đặt một dấu son cho giai đoạn sáng tác chín muồi ở Phạm Minh Tuấn.
Nặng lòng với quá khứ không phải để buồn đau tiếc nuối, mà để giữ cho cái tâm của ta luôn xứng với những gì tốt đẹp đã qua. Một quan niệm sống lạc quan và tích cực, như một thứ ánh sáng dẫn đường chỉ lối, cứ lấp lánh trong lời ca câu hát của Phạm Minh Tuấn: sống có trách nhiệm với đời, với chính bản thân mình, với quá khứ, hiện tại và tương lai. Tác giả Bài ca không quên vẫn không ngừng ước vọng về một đỉnh cao trong lẽ sống cũng như trong sáng tạo. Lẽ sống của người sáng tạo âm nhạc đã được gửi vào một câu hát: “Mai ngày ta khuất sẽ dâng người tình khúc thiên thu” (“Tình khúc thiên thu” của Phạm Minh Tuấn)
LTS Dân trí - “Ai đã sống mà không ngoái nhìn quá khứ”, nhất là quá khứ hào hùng của giai đoạn chống Mỹ, cứu nước, giành lại trọn vẹn đất nước thống nhất.
Hòa mình trong cuộc chiến đấu kiên cường, bất khuất ấy của dân tộc, nhiều người chiến sĩ - nghệ sĩ đã viết nên những “bài ca không bao giờ quên” đối với thế hệ hôm nay và mai sau. Những bài ca ấy sẽ sống mãi trong tâm khảm của mọi người con Việt Nam, luôn nhắc nhở họ phải sống sao xứng đáng với các thế hệ cha anh mình.
Ngày nay, đất nước ta đang tiến bước trên con đường hội nhâp, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, bên cạnh những thành tựu đáng tự hào, chúng ta đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức phải vượt qua, nhất là tình hình lạm phát, giá cả nhiều mặt hàng thiết yếu tuy đã được kiềm chế nhưng vẫn còn tiếp tục tăng…
Nhưng nếu so sánh những khó khăn, thách thức hôm nay với cuộc chiến đấu vô cùng gian khó của giai đoạn chống Mỹ, cứu nước thì chúng ta có đủ cơ sở để tin tưởng rằng: Với bản lĩnh kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam thì không có khó khăn nào mà không thể vượt qua; không có “kẻ thù” nào mà không đánh thắng. Đấy là niềm tin và cũng trách nhiệm phấn đấu của mọi người để không phụ lòng những chiến sĩ đã anh dũng hy sinh để giành lại sự vẹn toàn bờ cõi cho đất nước, cho mọi chúng ta có được cuộc sống hạnh phúc hôm nay.