Cần làm gì để nâng cao chất lượng đào tạo tiến sĩ?
Đúng là ở nước ngoài, có một số trường ĐH cho nghiên cứu sinh (NCS) bảo vệ luận án tiến sĩ mà không nhất thiết phải có bài đăng trên tạp chí quốc tế. Điều này tuỳ thuộc ngành học và tuỳ thuộc thầy hướng dẫn có yêu cầu hay không, đặc biệt là tuỳ thuộc từng trường.
Tuy nhiên, theo quan điểm của tôi, nước ngoài cũng có nhiều kiểu trường đại học và cũng có nhiều kiểu tiến sĩ lắm.
Bạn nghĩ gì nếu một trường Đại học, một quốc gia đào tạo được hàng ngàn nghiên cứu sinh một năm mà số lượng bài báo trong các tạp chí quốc tế của các nghiên cứu sinh đó chỉ là con số quá khiêm tốn? Chất lượng đào tạo của ta quá tồi rồi, nếu không có quy định và ràng buộc thì không bao giờ cải thiện được tình hình?
Đừng vì mục tiêu 20.000 tiến sĩ mà bỏ qua tiêu chí chất lượng, cần cụ thể hoá, chuẩn mực hóa, nhất là bài báo đăng trong tạp chí quốc tế (có độ tin cậy cao hơn nhiều tạp chí trong nước).
Ý kiến của bạn về vấn đề này xin gửi đến Diễn đàn Dân trí qua địa chỉ e-mail: thaolam@dantri.com.vn. |
Tôi đồng ý là cũng có một số trường nước ngoài có uy tín vẫn để cho Giáo sư tự quyết định có bắt buộc NCS phải có bài báo hay không. Tuy nhiên, trong những trường hợp như vậy thì quyết dịnh của Giáo sư là đáng tin cậy.
Còn ở Việt
Một vài đề tài thạc sĩ có chất lượng quá kém nhưng vẫn được hội đồng gồm các GS, PGS cho 9.5/10 điểm. Có lẽ, đã đến lúc các GS, PGS, TS, TSKH nên xem xét lại trách nhiệm của mình trong việc đào tạo Thạc sĩ và Tiến sĩ.
Nếu các thầy quá dễ dãi thì có thể một lúc nào đó sẽ có Tiến sĩ, Thạc sĩ do mình đào tạo được đề bạt làm cán bộ quản lý nhà nước hoặc quản lý doanh nghiệp, họ sẽ tính công sức lao động của các thầy (lương hoặc các hợp đồng tư vấn... chẳng hạn) bằng những gì họ thu nhận được trong thời kì làm cao học hoặc nghiên cứu sinh! Và nếu có thầy nào phàn nàn là “sao lương của chúng tôi thấp thế” thì chưa chắc các cán bộ quản lý ấy sẽ quan tâm nhiều hơn đâu!!!
Tôi đồng ý với ý kiến của bạn milanviet@yahoo.com.vn là mục tiêu đào tạo 20.000 tiến sĩ mà yêu cầu mỗi Tiến sĩ được đào tạo phải có ít nhất một bài báo đăng trong các tạp chí khoa học quốc tế là rất khó. Có thể trong thời gian đầu chưa có nhiều bài báo được đăng nhưng hy vọng cùng với thời gian, với quy định khắt khe này và một số thay đổi khác, số bài báo được đăng sẽ tăng lên để uy tín, chất lượng đào tạo của ta được cải thiện.
Số lượng 1.000 bài báo một năm cho cả nước tuy nhiều nhưng cũng không quá khó (vì Bộ GD-ĐT chấp nhận hơn 6.000 các loại tạp chí khác nhau) nếu có giải pháp đồng bộ và triệt để. Tôi có quan điểm là quy định bắt buộc có bài báo là có tính khả thi và rất chuẩn mực,nhưng mục tiêu đào tạo 20000 tiến sỹ là khó khả thi nếu không có các giải pháp đồng bộ và triệt để.
Chúng ta không thể, hoặc rất khó công bố quốc tế hàng nghìn bài báo mỗi năm, nếu chúng ta không tăng đầu tư, tạo điều kiện cho cả thầy và trò có những kết quả nghiên cứu mới, nhất là không có đầy đủ thông tin từ bên ngoài.
Trước hết, nhà nước nên đầu tư, hỗ trợ các trường Đại học để giảng viên, sinh viên trong các trường đó có khả năng truy cập và download các tạp chí cần thiết cho nghiên cứu. Hiện nay có quá nhiều ngành, nhiều trường không có khả năng truy cập vào các tạp chí chuyên ngành mà khả năng tài chính của trường, của ngành thì rất hạn chế. Chúng ta không thể nghiên cứu, không thể viết báo mà không biết thế giới họ đã và đang làm gì.
Không đầu tư hoặc đầu tư không đúng cũng vô nghĩa. Tôi thấy nhiều giảng viên nói thiết bị không có thì không thể nghiên cứu được. Điều đó rất đúng nhưng chưa đủ. Hiện nay nhà nước đã bắt đầu chú trọng đầu tư trang thiết bị cho nghiên cứu, ví dụ như các dự án phòng thí nghiệm trọng điểm.
Tôi thấy nhiều dự án phòng thí nghiệm trọng điểm đầu tư trong thời điểm hiện nay mà vẫn theo cách làm thiếu căn cứ tin cậy và quản lý chưa tốt, cho nên chưa đem lại hiệu quả cao. Nhiều cán bộ tham gia xây dựng dự án lớn không xác định được hướng nghiên cứu chiến lược, không biết thế giới họ đang và sẽ đi theo hướng nào (đấy là điều tất yếu do không có thông tin bên ngoài và còn phải lo duy trì sự sống). Nhiều cán bộ xây dựng dự án quan tâm nhiều đến việc làm sao để tiêu thụ hết nguồn vốn được cấp vào thiết bị chứ chưa bắt nguồn từ định hướng nghiên cứu chiến lược và cần các thiết bị cụ thể nào. Điều này tương tự như việc một anh nông dân ở ven đô bán được mảnh đất và điều đầu tiên họ nghĩ tới là xây nhà mới, xây nhà to, mua xe, mua đồ đạc.
Tôi là người tham gia tư vấn và cung cấp một số thiết bị nên tôi cũng biết chút ít về vấn đề này. Nhiều cán bộ ở các đơn vị thụ hưởng có học hàm, học vị cao, có khả năng ảnh hưởng nhiều đến dự án nhưng sử dụng internet không thường xuyên và không có nhiều kĩ năng thu thập các thông tin cần thiết nên nhiều khi chỉ nghe tư vấn từ các nhân viên làm trong các công ty cung cấp thiết bị.
Hiệu quả đầu tư cho các dự án lớn, trọng điểm sẽ không cao nếu không có thông tin đầy đủ và không xác định được hiệu quả đầu tư. Đầu tư như thế rất dễ dẫn đến hiện tượng bội thực ở một vài đơn vị và chỗ cần thì không có. Có lẽ, số tiền hàng triệu đô cho các dự án phòng thí nghiệm trọng điểm nên đầu tư dùng chung cho nhiều đơn vị, nhiều nhóm nghiên cứu có nhu cầu và có định hướng nghiên cứu cụ thể, rõ ràng và họ biết thế giới đang và sẽ làm gì và họ cần làm gì.
Một người, một nhóm nhỏ không thể làm một lúc nhiều nghiên cứu với quá nhiều thiết bị được. Khi đó, nhiều đơn vị cùng có thiết bị nghiên cứu (hy vọng có nhiều bài báo được đăng hơn) và thiết bị mua về không bị đắp xó (có nhiều thiết bị mua về để hơn 2 năm chưa sử dụng trong khi thời gian bảo hành thông thường là 1 năm) như nhiều thiết bị trong các dự án đầu tư lớn. Đến khi thiết bị nào đó bị hỏng nhẹ cũng không có tiền để sửa chữa, bảo dưỡng thì đầu tư có hiệu quả không???
Tôi nói thiết bị đắp xó là nhiều vì đã thấy nhiều và chỉ một đơn vị nhỏ không thể hấp thụ và tiêu hoá hết lượng thiết bị đầu tư nhiều như vậy. Và một điều hiển nhiên khác là các cán bộ trong các phòng thí nghiệm, đơn vị nghiên cứu không thể và không muốn đầu tư nghiên cứu nếu lương không đủ duy trì sự sống.
Chúng ta không thể toàn tâm toàn ý cho việc nghiên cứu nếu lương không đủ sống và suốt ngày phải lo cơm áo gạo tiền cho bản thân chứ chưa nói đến cho con cái. Nếu không cải thiện chế độ tiền lương cho các giảng viên đại học (đặc biệt là các giảng viên trẻ), cho các bác sĩ để họ đủ sống và yên tâm công tác thì điều gì sẽ xảy ra sau này?
Khi các giảng viên, nhà nghiên cứu, nhà khoa học đi làm kinh tế để duy trì sự sống thấy việc kiếm tiền thuận lợi, dễ dàng và hiệu quả hơn làm nghiên cứu thì họ có toàn tâm toàn ý cho việc nghiên cứu và đào tạo nữa không mặc dù họ vẫn là giảng viên, nhà nghiên cứu trong trường Đại học, trong viện nghiên cứu trong mấy chục năm nữa?
Theo chủ quan của tôi, khi đã làm thương mại rồi thì việc ngồi nghiên cứu để có bài báo công bố quốc tế là điều rất khó khăn. Tất nhiên, người thầy không có khả năng công bố nghiên cứu trên các tạp chí quốc tế thì trò, NCS, càng khó có thể công bố được.
Nếu không có thông tin, không có thiết bị hoặc được đầu tư không hợp lý, lương không đủ sống thì cần xem lại mục tiêu 20000 tiến sĩ, tính khả thi và chất lượng đào tạo tiến sĩ nói riêng và đào tạo nói chung!
LTS Dân trí - Nhiều ý kiến đóng góp của “những người trong cuộc” đều cho thấy muốn nâng cao chất lượng đào tạo tiến sĩ thì phải thực hiện những giải pháp đồng bộ, cả việc tăng cường cơ sở vật chất cho việc đào tạo, nghiên cứu; chăm lo đời sống và điều kiện làm việc cho cả thầy và trò, đồng thời xây dựng quy chế đào tạo tiến sĩ phù hợp với thông lệ quốc tế.
Bộ GD-ĐT, với chức năng quản lý Nhà nước, chỉ nên quy định những tiêu chuẩn khái quát, còn dành quyền chủ động cho các trường đại học và viện nghiên cứu đã được giao nhiệm vụ đào tạo nghiên cứu sinh. Nhiều người thống nhất ý kiến: không vì mục tiêu số lượng mà xem nhẹ chất lượng đào tạo tiến sĩ, vốn là một điểm yếu mà chúng ta cần khắc phục.