Bị bắt khẩn cấp, lái xe Audi tông chết 3 người sẽ bị tạm giữ trong bao lâu?
(Dân trí) - Liên quan đến vụ lái xe Audi tông chết 3 người trong một gia đình ở Bắc Giang bị bắt khẩn cấp, bạn đọc thắc mắc, bắt khẩn cấp khác với bắt không khẩn cấp thế nào? Đối tượng sẽ bị bắt giam bao lâu?
Liên quan đến vụ lái xe Audi tông chết 3 người trong một gia đình ở Bắc Giang đêm 2/6, Công an thành phố Bắc Giang đã quyết định bắt khẩn cấp đối với Nguyễn Quốc Thịnh (35 tuổi, cán bộ Ban quản lý Bảo trì đường bộ, thuộc Sở GTVT Bắc Giang).
Nguyễn Quốc Thịnh điều khiển xe ô tô hiệu Audi BKS 98A-499.44 gây tai nạn trong tình trạng có hơi men. Cụ thể, nồng độ cồn trong máu của tài xế Thịnh lên tới 0,604 mg/l khí thở. Đây là mức rất cao, gấp 1,5 lần mức xử lý vi phạm tối đa quy định tại Nghị định 100 (mức vi phạm bị xử phạt tối đa hiện hành là trên 0,4 mg/l khí thở).
Trước sự việc khiến dư luận bất bình này, bạn đọc báo Dân trí thắc mắc: Xin hỏi bắt khẩn cấp khác với bắt không khẩn cấp như thế nào? Bắt rồi có giam giữ không? Nếu có giam sao không gọi là bắt giam? Tạm giữ và tạm giam khác nhau ra sao?
Bắt khẩn cấp khác với bắt không khẩn cấp như thế nào?
Trả lời thắc mắc của bạn đọc, Luật sư Quách Thành Lực - Công ty luật Pháp trị cho biết, bắt khẩn cấp là một trong các biện pháp ngăn chặn tạm thời hạn chế tự do của người bị áp dụng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Bắt người trong trường hợp khẩn cấp là biện pháp ngăn chặn mang tính cấp bách khi qua xác minh ban đầu đã có tài liệu khẳng định một người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc khẳng định một người đã thực hiện tội phạm hay bị nghi thực hiện tội phạm, mà xét thấy cần ngăn chặn họ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
Điểm khác biệt giữa bắt khẩn cấp và không khẩn cấp là việc bắt khẩn cấp sẽ không cần có lệnh phê chuẩn trước của viện kiểm sát, nhằm mục đích ngăn chặn ngay, đề phòng việc trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ khi có căn cứ người đó đang chuẩn bị phạm tội, khi người bị hại hoặc người có mặt ở nơi xảy ra phạm tội xác nhận đúng người đã phạm tội, khi có dấu vết của tội phạm ở người hoặc chỗ ở của người bị nghi là phạm tội.
Trong mọi trường hợp, việc bắt khẩn cấp phải được báo ngay cho viện kiểm sát nhân dân cùng cấp bằng văn bản, kèm theo các tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn. Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp phải kiểm sát chặt chẽ việc bắt khẩn cấp. Trong trường hợp cần thiết, viện kiểm sát nhân dân phải trực tiếp gặp, hỏi người bị bắt trước khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.
Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị phê chuẩn và các tài liệu có liên quan đến việc bắt khẩn cấp, Viện kiểm sát nhân dân phải ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn, nếu viện kiểm sát nhân dân không phê chuẩn thì người đã ra lệnh bắt phải trả tự do ngay cho người bị bắt.
Quy định của pháp luật về tạm giữ người sau khi bắt khẩn cấp
Luật sư Lực cho biết, tạm giữ là biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang để cách li họ với xã hội trong một thời gian cần thiết nhằm ngăn chặn người đó tiếp tục phạm tội, cản trở điểu tra và xác định sự liên quan của người này đối với tội phạm.
Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thường bị tạm giữ vì trong hầu hết trường hợp khi quyết định giữ khẩn cấp, cơ quan điều tra đã xác định cần phải ngăn chặn việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ gây khó khăn cho việc điều tra, khám phá tội phạm.
Mục đích của tạm giữ đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp là để ngăn chặn hành vi phạm tội, ngăn ngừa hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở hoạt động điều tra của người phạm tội, tạo điều kiện cho cơ quan điều tra thu thập chứng cứ, tài liệu, bước đầu xác định tính chất hành vi của người bị tạm giữ.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, kế thừa và phát triển các chế định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, có quy định trong thời hạn 12 giờ, lệnh tạm giữ phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp. Khi kiểm sát việc tạm giữ, nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ lệnh tạm giữ và trả tự do ngay cho người bị bắt.
Thời hạn tạm giữ không được quá 3 ngày đêm kể từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Trong trường hợp cần thiết, cơ quan ra lệnh tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng không quá 3 ngày và trong trường hợp đặc biệt lại có thể gia hạn tạm giữ lần thứ 2 nhưng không quá ba ngày.
Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn. Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị gia hạn, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
Thời gian tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam. Thời hạn tạm giữ hạn chế quyền của công dân nên được tính trừ vào thời hạn tạm giam theo nguyên tắc một ngày tạm giữ bằng một ngày tạm giam. Trường hợp người bị tạm giữ sau đó không bị tạm giam thì khi tòa án quyết định hình phạt tù đối với bị cáo, thời hạn tạm giữ được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù theo nguyên tắc một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tù.
Tạm giữ và tạm giam khác nhau thế nào?
Tạm giữ và tạm giam là hai biện pháp ngăn chặn được quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Tuy nhiên, tạm giữ và tạm giam có nhiều điểm khác nhau:
Về đối tượng áp dụng:
Điều 117 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định, tạm giữ có thể áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã.
Trong khi đó, tạm giam áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hoặc về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng trong một số trường hợp nhất định (Điều 119).
Về thẩm quyền ra quyết định:
Người có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ gồm: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp; Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương, Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương…; Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.
Trong khi đó, người có thẩm quyền ra quyết định tạm giam có: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử.
Về thời hạn tạm giữ, tạm giam
- Tạm giữ: Không quá 03 ngày. Trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng không quá 03 ngày. Trường hợp đặc biệt, có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá 03 ngày.
- Tạm giam: Không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng; Không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng; Không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.