Có được đổi số năm đóng bảo hiểm xã hội thừa để nghỉ hưu sớm?

Tùng Nguyên

(Dân trí) - Nhiều người lao động bắt đầu đi làm từ rất sớm, vượt số năm tham gia BHXH để nhận lương hưu tối đa. Người lao động băn khoăn, có thể đổi số năm đóng thừa so với mức tối đa để nghỉ hưu sớm không?

Năm nay ông Nguyễn Phi Hùng 56 tuổi nhưng ông đã đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) được 33 năm. Như vậy, khi 58 tuổi, ông sẽ đóng BHXH được 35 năm, đủ điều kiện để hưởng lương hưu với tỷ lệ hưởng tối đa (75% bình quân tiền lương làm căn cứ đóng BHXH). Tuy nhiên, thời điểm đó ông vẫn chưa đủ tuổi để nghỉ hưu, hưởng chế độ hưu trí.

Ông Hùng hỏi: "Số năm đóng thừa BHXH của tôi có được quy đổi sang tuổi để về hưu sớm mà vẫn hưởng mức tỷ lệ lương hưu tối đa hay không?".

Có được đổi số năm đóng bảo hiểm xã hội thừa để nghỉ hưu sớm? - 1

Nhiều người lao động bắt đầu đi làm từ rất sớm, vượt số năm tham gia BHXH để lãnh lương hưu tối đa (Ảnh minh họa: Phạm Nguyễn).

Theo BHXH Việt Nam, điều kiện hưởng lương hưu được quy định tại Điều 169, Khoản 1 Điều 219 Bộ luật Lao động năm 2019 và Nghị định số 135/2020/NĐ-CP.

Theo đó, kể từ ngày 1/1/2021, tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường là đủ 60 tuổi 3 tháng đối với lao động nam và đủ 55 tuổi 4 tháng đối với lao động nữ. Sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm 3 tháng đối với lao động nam cho đến khi đủ 62 tuổi vào năm 2028 và cứ mỗi năm tăng thêm 4 tháng đối với lao động nữ cho đến đủ 60 tuổi vào năm 2035.

Người lao động có thể nghỉ hưu thấp hơn không quá 5 tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định trên nếu có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên và thuộc một trong bốn trường hợp dưới đây.

Thứ nhất, có từ đủ 15 năm trở lên làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm.

Thứ hai, có từ đủ 15 năm trở lên làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 1/1/2021).

Thứ ba, có tổng thời gian làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm và thời gian làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 1/1/2021) từ đủ 15 năm trở lên.

Thứ tư, bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.

Người lao động có thể nghỉ hưu thấp hơn tối đa 10 tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định nếu có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên và thêm một trong hai điều kiện sau.

Thứ nhất, có đủ 15 năm làm công việc khai thác than trong hầm lò.

Thứ hai, bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên.

Ngoài ra, người lao động sẽ không bị quy định giới hạn về tuổi đời khi đã có đủ 20 năm đóng BHXH và thuộc một trong hai trường hợp: 

Thứ nhất, bị nhiễm HIV/AIDS do tai nạn rủi ro nghề nghiệp.

Thứ hai, bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên và có đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm.

Về mức lương hưu, BHXH Việt Nam cho biết, theo quy định tại Khoản 2, Khoản 3 Điều 56 Luật BHXH năm 2014.

Theo đó, mức lương hưu hằng tháng được tính bằng tỷ lệ hưởng lương hưu hằng tháng nhân với mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH.

Trong đó, tỷ lệ hưởng lương hưu hằng tháng đối với lao động nam được tính bằng 45% tương ứng với 20 năm đóng BHXH. Sau đó, cứ thêm mỗi năm đóng BHXH được tính thêm 2%, mức tối đa bằng 75%.

Như vậy, để đạt được mức lương hưu hằng tháng là 75% thì lao động nam khi đủ tuổi hưởng lương hưu cần có đủ 35 năm đóng BHXH.

Theo BHXH Việt Nam, pháp luật về BHXH hiện hành không có quy định số năm đóng BHXH thừa được quy đổi sang tuổi để về hưu sớm mà vẫn hưởng mức tỷ lệ lương hưu tối đa.