TP.HCM:
Vụ ngân hàng Đại Tín: Tội cố ý vi phạm hay thiếu trách nhiệm?
(Dân trí) - Trong phần bào chữa luật sư đề nghị HĐXX phân định lại hành lang pháp lý từ hành vi của bị cáo là cố ý vi phạm cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng hay thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng.
Ngày 4/5, TAND TPHCM tiếp tục phiên tòa xét xử ông Hoàng Văn Toàn (nguyên Chủ tịch HĐQT Ngân hàng Đại Tín - TrustBank), Trần Sơn Nam (nguyên Tổng Giám đốc) và 6 đồng phạm về tội “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng”.
Luật sư Lê Nguyễn Quỳnh Thi, bào chữa cho bị cáo Hoàng Văn Toàn, đề nghị HĐXX đánh giá xem xét cho bị cáo 2 vấn đề. Một là, chấp nhận lời khai của bị cáo tại thời điểm phê duyệt 2 món vay của công ty Thịnh Quốc và Đại Hoàng Phương bị cáo thực hiện đúng quy trình tín dụng. Hai là, phân định lại hành lang pháp lý từ hành vi của bị cáo là cố ý vi phạm cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng hay thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng.
“Bị cáo không biết công ty Thịnh Quốc và Đại Hoàng Phương là công ty con của ông Phạm Công Danh nên ý thức chủ quan không có động cơ tư lợi bị ép buộc áp lực khi phê duyệt. Xác minh tại ngân hàng Nhà nước, tại Bộ Tài chính và tại DATC thì bị cáo cho rằng chứng thư thẩm định giá của DATC có thể tham khảo cho mục đích vay vốn nên không sai”, luật sư nêu.
Luật sư Lê Văn Nam, bào chữa cho bị cáo Trần Sơn Nam, nguyên Tổng giám đốc Ngân hàng Đại Tín cho rằng chưa đủ cơ sở kết luận bị cáo Trần Sơn Nam phạm tội. Luật sư Nam nêu, cáo trạng cho rằng các bị cáo đã vi phạm khi không yêu cầu Công ty vay vốn cung cấp báo cáo tài chính. Tuy nhiên, quyết định 1627 của ngân hàng Nhà nước cũng không quy định cụ thể văn bản, tài liệu nào là bắt buộc phải có để chứng minh khả năng tài chính của khách hàng mà để cho tổ chức tín dụng tự xem xét, đánh giá theo thực tế.
Trong khi đó, tại tòa các bị cáo đã giải thích do 2 công ty Thịnh Quốc và Đại Hoàng Phương mới được thành lập vài tháng nên chưa thể có báo cáo tài chính. Báo cáo tài chính thường chỉ được xem là quan trọng trong việc cho vay với mục đích sản xuất, kinh doanh thương mại. Trong trường hợp này là vay để chuyển nhượng bất động sản, có vốn đối ứng, có hợp đồng đầu ra đầu vào, được đảm bảo bằng chính tài sản giao dịch, có số dư trên 30%, khoản lãi trên 300 tỷ đồng và chuyển tiền ủy nhiệm chi qua ngân hàng thì báo cáo tài chính không phải là yếu tố quan trọng khi xem xét phê duyệt cho vay. Điều quan trọng là ngân hàng đưa ra biện pháp như thế nào để có thể kiểm soát được giao dịch.
Theo đó, để hạn chế rủi ro thì ngay trong tờ trình 970 chi nhánh Sài Gòn cũng nêu ký hợp đồng thế chấp, công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định… Trong công văn số 2503 và 2504 của Tổng giám đốc Trần Sơn Nam gửi cho chi nhánh Sài Gòn về việc đồng ý cho vay đối với hai công ty đều yêu cầu các điều kiện kèm theo như các đề xuất của chi nhánh Sài Gòn tại tờ trình 970, chi nhánh Sài Gòn có trách nhiệm kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay và bổ sung chứng từ sử dụng vốn theo đúng quy định của ngân hàng…
Về chứng thư thẩm định giá, luật sư Nam cho rằng, không có quy định pháp luật nào quy định ngân hàng phải lựa chọn đơn vị thẩm định giá nào để xác định giá trị tài sản thế chấp. Với hồ sơ được trình, đã có chứng thư thẩm định giá của Công ty DATC - có chức năng, chuyên môn thẩm định giá, thuộc Bộ Tài chính. Vì vậy, các bị cáo cũng sẽ không nhận biết được các phương pháp mà thẩm định giá viên áp dụng là thặng dư hay so sánh là đúng hay sai mà chỉ căn cứ vào kết quả thẩm định giá, lấy giá trị đó để phê duyệt cho vay.
Về phần tự bào chữa, các bị cáo bất ngờ thay đổi lời khai cũng như trình bày hàng loạt các tình tiết giảm nhẹ.
Đối đáp lại quan điểm của các luật sư đại diện Viện KSND TPHCM bảo lưu quan điểm.
Xuân Duy