“Doanh nghiệp Việt không sản xuất nổi ốc vít”: Bộ trưởng nói gì?

(Dân trí) - Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng khẳng định, doanh nghiệp Việt Nam nhiều năm nay đã sản xuất được con ốc vít, nhưng việc tham gia vào chuỗi cung ứng giá trị toàn cầu lại phụ thuộc nhiều yếu tố khác, trong đó có sự cạnh tranh về giá bán.

Đọc những thông tin kinh tế - tài chính mới nhất trên FICA:

* Buồng ngủ 5 sao ở sân bay Nội Bài "tái xuất" sau thời gian bị dẹp

* Sàn vàng cái ôm triệu đô "biến mất" trước mũi nhà đầu tư Việt Nam
* Người biểu tình Hong Kong sẽ dỡ bỏ việc phong tỏa tòa nhà chính quyền
* Ngân hàng lớn chạy đua thâu tóm công ty tài chính
* Người dân có xu hướng đổi USD ra VND để gửi tiết kiệm
* Agribank bổ nhiệm hàng loạt nhân sự mới
* Chuyện con ốc vít: Làm được nhưng bán cho Samsung là chuyện khác

Ở tầm quốc gia, hiện nay, mỗi năm Việt Nam mất tới hơn 50 tỷ USD để nhập khẩu các linh, phụ kiện phục vụ cho ngành sản xuất, xuất khẩu. Con số này lớn hơn tổng sản lượng của tất cả các doanh nghiệp nhà nước cộng lại.

Thứ hai, ở tầm doanh nghiệp, gần đây dư luận xôn xao trước việc không doanh nghiệp Việt Nam nào đủ khả năng sản xuất được ốc vít theo đặt hàng của Tập đoàn Samsung. 

Hai câu chuyện này đang đặt ra những lo ngại cho ngành công nghiệp hỗ trợ trong nước. Những băn khoăn của doanh nghiệp xung quanh vấn đề này là nội dung chính trong Chuyên mục Dân hỏi Bộ trưởng trả lời diễn ra tối 5/10/2014 với Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng.

Bộ trưởng Công thương Vũ Huy Hoàng
Bộ trưởng Công thương Vũ Huy Hoàng
 
Câu hỏi của một doanh nghiệp: Trong cuộc hội thảo gần đây, chúng tôi là 1 trong 200 doanh nghiệp điện tử của Việt Nam đã phải rất tiếc nuối khi không đủ khả năng sản xuất được con ốc vít theo đơn đặt hàng của Samsung. Xin hỏi Bộ Công thương có những định hướng như thế nào để chúng tôi có thể chớp được cơ hội cung cấp các linh, phụ kiện cho các Tập đoàn toàn cầu đang có mặt tại Việt Nam?
 
Trước hết phải khẳng định là chúng ta sản xuất được ốc vít! Trên thực tế nhiều năm qua, chúng ta đã làm được rồi và làm chất lượng đảm bảo. Tuy nhiên, việc đưa được sản phẩm đó vào trong chuỗi giá trị, vào chuỗi sản xuất của Tập đoàn Samsung không chỉ riêng ở Việt Nam mà trên phạm vi toàn cầu là câu chuyện khác. Bởi nếu rõ ràng, chúng ta không đảm bảo được về chi phí, do năng suất thấp, giá thành cao thì khó có thể len chân được vào chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng toàn cầu. 

Để giúp các doanh nghiệp Việt Nam, nhất doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ (ở đây chủ yếu là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, thậm chí là rất nhỏ), Nhà nước phải có nhiều biện pháp, nhiều công cụ hỗ trợ. Ngoài các cơ chế chính sách, như đào tạo, huấn luyện cán bộ, công nhân, việc định hướng thị trường, tạo thuận lợi về thuế, mặt bằng, lao động, thì Nhà nước cũng cần các chương trình hợp tác với nước ngoài, nhất là những quốc gia có kinh nghiệm và thế mạnh về phát triển công nghiệp hỗ trợ như Nhật Bản, Hàn Quốc.
 
Một doanh nghiệp khác cho biết: Tôi là một doanh nghiệp rất muốn tham gia vào các ngành công nghiệp hỗ trợ vì tôi được biết ngành này có rất nhiều chính sách ưu đã: như gói ưu đãi lãi suất, quỹ hỗ trợ vốn. Nhưng thực tế khi làm thủ tục vay ưu đãi, tôi mới thấy một “biển” thủ tục mà tôi nghĩ có “bơi” ra cũng không thể nào vay được vốn. Tôi được biết là cùng chung số phận như tôi, chưa một doanh nghiệp nào vay được vốn ưu đãi, dù đã 3 năm sau khi chính sách ưu đãi công nghiệp hỗ trợ của Chính phủ được ban hành. Tôi muốn hỏi Bộ trưởng, tại sao các chính ưu đãi này chưa đến được với các doanh nghiệp?
 
Không phải là đến nay không có doanh nghiệp nào được hưởng ưu đãi trong chương trình khuyến khích ngành công nghiệp hỗ trợ của Chính phủ. Tất nhiên, con số rất ít. Điều này phản ánh một thực tế: Mặc dù Chính phủ, các cấp các ngành cũng hết sức quan tâm đến phát triển công nghiệp hỗ trợ, nhưng chưa đi vào được cuộc song.

Chúng tôi cho rằng, lý do là những ưu đãi, cơ chế, chính sách hiện có chưa đủ sức hấp dẫn và chưa đủ để các doanh nghiệp quan tâm. Thứ 2, bản thân sức của các doanh nghiệp hỗ trợ còn đang yếu, nếu không có vai trò thúc đẩy, hay sự hỗ trợ trực tiếp về kinh phí, có lẽ họ khó mà thực hiện được các chủ trương trong khuyến khích phát triển doanh nghiệp lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ. 

Vì thế Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về khuyến khích phát triển công nghiệp hỗ trợ ban hành 24/2/2011, mặc dù đã đề cập đến nhiều yếu tố hỗ trợ nhưng trong thực tế việc thực thi vẫn còn nhiều vấn đế.
 
Chính vì vậy, vừa qua Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Công thương chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành địa phương rà soát lại Quyết định 12 và xây dựng thành một Nghị định.
 
Khi đó, cấp độ pháp lý, hay tác động chắc chắn sẽ cao hơn Quyết định, và có điều kiện để đề cập, xem xét, quy định những nội dung mới qua thực tiễn 3 năm vừa qua còn bộc lộ những mặt bất cập.

Hiện nay, Chính phủ sẽ tiếp tục ban hành một số cơ chế, chính sách đặc thù cho công nghiệp hỗ trợ, như Chương trình quốc gia về phát triển doanh nghiệp hỗ trợ, hình thành Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp trong lĩnh vực này, và những cơ chế ưu đãi hơn (ví dụ thuế) đối với doanh nghiệp trong lĩnh vực hỗ trợ.

Liên quan đến Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp, điểm mới của Quỹ này là gì thưa Bộ trưởng?

Trong Quyết định 12 cũng đề cập đến một hình thức hỗ trợ cho doanh nghiệp trong lĩnh vực này nhưng không quy định cụ thể. Trong dự thảo Nghị định lần này sẽ quy định cụ thể hơn. Một là quỹ hình thành như thế nào, nguồn vốn ở đâu, và việc điều hành quỹ cụ thể sẽ được quy định rất chi tiết. Khi đó, với việc có quỹ này sẽ thực sự hỗ trợ được cho doanh nghiệp.

Bộ trưởng Công thương Vũ Huy Hoàng
 
Một doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực tiêu dùng hỏi: Gần đây tôi có biết về một thương vụ mua lại chuỗi siêu thị tại Việt Nam của một Tập đoàn bán lẻ Thái Lan. Được biết trước đó, cũng chính Tập đoàn này mua lại một chuỗi siêu thị Việt Nam khác, sau đó đã đưa hàng Thái Lan vào chuỗi này đến 70%. 

Trong bối cảnh, Cộng đồng kinh tế ASEAN sắp được thành lập, thuế suất của hàng Thái Lan vào Việt Nam sẽ chỉ còn 0% thì làm sao chúng tôi có thể cạnh tranh với hàng Thái khi mà giá vừa rẻ lại có cả hệ thống phân phối đến với người tiêu dùng Việt Nam như vậy? Xin được hỏi Bộ trưởng, liệu chúng ta có quy định về tỉ lệ hàng nội địa tối thiệu trong các siêu thị nước ngoài tại Việt Nam hay không?

Tôi hiểu đó là thương vụ Tập đoàn Metro nhượng bán lại dự án của họ đang hoạt động tại Việt Nam cho một đối tác Thái Lan là BJC. 

Việc bán các mặt hàng ngoại trong các siêu thị, về mặt hành chính thì hiện nay không cấm được, nhưng chúng ta có những giải pháp khác như dùng hạn ngạch đối với hàng nhập khẩu vào Việt Nam. Khi chúng ta có hạn chế về những mặt hàng nhập khẩu vào Việt Nam, thì các nhà đầu tư nước ngoài kinh doanh các hệ thống siêu thị cũng không được phép, hoặc là rất hạn chế nhập khẩu các mặt hàng này bán vào hệ thống của họ tại Việt Nam, 

Tuy nhiên, trên thực tế các siêu thị nước ngoài hoạt động tại Việt Nam như Metro, BigC là những tên tuổi lớn, tương đối quen thuộc với người tiêu dùng, họ lại sử dụng phần lớn hàng hoá Việt Nam, hoặc xuất xứ ở Việt Nam.
 
Đối với trường hợp doanh nghiệp của Thái nhận chuyển nhượng của Metro, tôi nghĩ rằng, nếu hàng Việt Nam chất lượng tốt, mẫu mã thu hút được người tiêu dùng, giá cả phải chăng, chắc chắn họ sẽ dùng hàng Việt Nam tiêu thụ trong hệ thống của họ.
 
Một doanh nghiệp thép lo ngại, khi Việt Nam ký Hiệp định liên minh thuế quan với Nga, Belarus và Kazaktan, hàng loạt doanh nghiệp thép trong nước có thể sẽ phá sản do không thể cạnh tranh nổi với thép từ Nga tràn vào. Vậy Bộ đã tính toán mức độ ảnh hưởng của các ngành thép trong quá trình đàm phán Hiệp định liên minh thuế quan này hay chưa?
 
Sản phẩm thép có rất nhiều chủng loại, cho nên trong đàm phán của chúng ta với Liên minh thuế quan, đoàn đàm phán có đưa ra một bản chào hàng, mở cửa cho phía bạn. Theo đó, những sản phẩm mà chúng ta sản xuất đủ và thừa, chẳng hạn như thép xây dựng thông thường, đề nghị bạn không mở cửa hoặc là nếu mở cửa phải có hạn ngạch, thuế suất cao. 

Nhưng ngược lại, có những sản phẩm thép chúng ta chưa sản xuất được, trong thời gian dài tới đây mà lâu nay chúng ta nhập khẩu như thép chế tạo thì rõ ràng, việc chúng ta cho phép các đối tác nước ngoài trong đó có Liên minh thuế quan được xuất khẩu sản phẩm thép này vào Việt Nam là có lợi cho chúng ta, bởi vì thuế thấp, các doanh nghiệp sử dụng thép chế tạo sản xuất ra sản phẩm thép của mình giá cả thấp hơn.
 
Đây là điều chúng ta phải nói rõ, không dư luận lại hiểu chúng ta mở cửa thị trường thép cho Liên minh thuế quan dẫn đến hàng loạt doanh nghiệp thép gặp khó khăn, cần phải nhìn theo đúng đặt vấn đề và cách đàm phán mà hiện nay chúng tôi đang làm.

Vậy có nguy cơ phá sản hàng loạt doanh nghiệp thép hay không, thưa Bộ trưởng?

Tôi nghĩ là không có cơ sở.
 
Xin trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!
 
Bích Diệp (ghi)

Hà Nội: Tận mục bến xe khách ngầm trên “đất vàng”