Vì sao phải đầu tư 12.000 tỷ đồng đào tạo 9000 tiến sĩ?

(Dân trí) - Hiện nay Việt Nam có trên 24.300 tiến sĩ nhưng vì sao phải đào tạo thêm 9000 tiến sĩ và dự kiến số tiền đầu tư khoảng 12.000 nghìn tỷ đồng.

Bộ GD&ĐT vừa có dự thảo Đề án trình Chính phủ: "Nâng cao năng lực đội ngũ GV&CBQL các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2018-2025".

Theo đó, Đề án sẽ tập trung vào hỗ trợ các cơ sở giáo dục đại học đạt được mục tiêu nâng cao năng lực đội ngũ GV&CBQL theo chiến lược phát triển và yêu cầu đào tạo chất lượng cao của cơ sở, trong đó phấn đấu đến năm 2025, nâng tỉ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ lên 35% (khoảng 9000 tiến sĩ) tổng số giảng viên các CSGDĐH. Trong đó, đào tạo khoảng 5.000 tiến sĩ ở nước ngoài tại các trường đại học có uy tín trên thế giới.

Từ 2018 đến 2025 mỗi năm tuyển chọn khoảng từ 600 - 700 nghiên cứu sinh đi đào tạo ở nước ngoài; Thu hút khoảng 1500 tiến sĩ đang công tác ở nước ngoài hoặc đang làm việc ngoài các CSGDĐH đến làm việc tại các trường đại học tại Việt Nam...

Tổng kinh phí thực hiện Đề án dự kiến là 12.000 tỷ đồng, bao gồm 10.200 tỉ đồng từ kinh phí còn lại của Đề án Đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ cho các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2010-2020 được phê duyệt theo Quyết định số 911/QĐ-TTg ngày 17/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ và 1.800 tỉ từ các cơ sở giáo dục đại học và đối tượng thụ hưởng Đề án.


Số lượng tiến sĩ của Việt Nam còn quá ít so với các nước trong khu vực?

Số lượng tiến sĩ của Việt Nam còn quá ít so với các nước trong khu vực?

Tỷ lệ tiến sĩ thấp so với cơ sở đào tạo

Theo thống kê của Bộ GD&ĐT, năm học 2016-2017, tổng số cơ sở giáo dục đại học ở nước ta là 235, số lượng giảng viên trong các cơ sở giáo dục đại học là 72.792 người (công lập: 57.634 người; ngoài công lập: 15.158 người), tăng 3.201 người so với năm học 2015-2016.

Trong đó số lượng giảng viên có trình độ tiến sĩ là 16.514 người (chiếm 22,7%); trình độ thạc sĩ là 43.127 người (chiếm 59,2%); trình độ đại học và cao đẳng là 12.519 người (chiếm 17,2%); chuyên khoa I, II là 523 người; trình độ khác là 109 người.

Tổng số trường cao đẳng sư phạm là 33, số lượng giảng viên trong các trường cao đẳng là 3.493 người. Trong đó, giảng viên có trình độ tiến sĩ là 120 người (chiếm 3,4%); trình độ thạc sĩ là 2.187 người (chiếm 64,5%); trình độ đại học và cao đẳng là 1.049 người (chiếm 30.9%); trình độ khác là 5 người.

Toàn ngành giáo dục hiện có 4.687 giáo sư và phó giáo sư (chiếm 6,4% tổng số giảng viên), trong đó 574 giáo sư (chiếm 0,8%) và 4113 phó giáo sư (chiếm 5,6%).

Bộ GD&ĐT cho rằng, tỉ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ công tác tại các cơ sở giáo dục đại học còn thấp, chưa hợp lý về cơ cấu độ tuổi và chưa cân đối giữa các ngành đào tạo. Tỉ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ còn thấp so với một số quốc gia trong khu vực.

So sánh tỉ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ tại một số quốc gia trong khu vực:

Quốc gia

Việt Nam

(2017)

Sri Lanka (2015)

Thái Lan

(2005)

Malaysia

(2010)

Tỉ lệ TS/GV

22,7%

55%

24%

73%

Theo số liệu của Bộ Giáo dục Sri Lanka, tỷ lệ tiến sĩ trên tổng số giảng viên của các trường đại học năm 2015 là hơn 55%. Tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ tại Thái Lan năm 2005 là hơn 24%. Tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ tại các trường đại học nghiên cứu của Malaysia năm 2010 là 73%. Đại đa số trường đại học trên thế giới, có bằng tiến sĩ là một trong những yêu cầu bắt buộc đối với giảng viên.

Tại một số cơ sở giáo dục đại học trong tốp đầu như ĐHQGHN, ĐHQG-HCM, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, Trường Đại học Cần Thơ, tỉ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ khá cao, khoảng 45%, tương đương tỉ lệ tại một số quốc gia trong khu vực.

Tuy nhiên, nếu tính trên tổng thể thì tỉ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ còn rất khiêm tốn (chỉ chiếm 23% tổng số giảng viên). Tại một số cơ sở giáo dục đại học và các trường cao đẳng sư phạm có các khoa, bộ môn đặc thù như khoa giáo dục thể chất, khoa giáo dục mầm non, khoa giáo dục tiểu học, bộ môn nghệ thuật, bộ môn ngoại ngữ, tỉ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ rất thấp, một số nơi không có tiến sĩ.

Số lượng GV&CBQL có chức danh giáo sư và phó giáo sư công tác tại các cơ sở giáo dục đại học cũng thấp (6,4%). Trình độ GV&CBQL hạn chế dẫn tới việc thiếu chuyên gia đầu ngành trong nhiều lĩnh vực đào tạo và nghiên cứu khoa học.

24.300 tiến sĩ nhưng nghiên cứu khoa học lại tụt xa so với thế giới

Theo báo cáo của các cơ sở giáo dục đại học, số lượng công trình nghiên cứu tuy nhiều nhưng chất lượng chưa cao. Số lượng công trình nghiên cứu được áp dụng vào thực tiễn còn hạn chế.

Nhiều giảng viên còn hạn chế về năng lực tổ chức và hợp tác nghiên cứu khoa học. Việc tạo điều kiện cho giảng viên phát huy năng lực nghiên cứu khoa học (về kinh phí, cơ sở vật chất và thiết bị) còn hạn chế. Số lượng nhóm nghiên cứu mạnh tại các cơ sở giáo dục đại học chưa nhiều và cũng chưa được đầu tư tương xứng.

Trên phương diện hội nhập quốc tế về nghiên cứu khoa học, số lượng các công bố quốc tế trên các tạp chí thuộc danh mục ISI và Scopus của Việt Nam còn hạn chế. Tại một số cơ sở giáo dục đại học, trong nhiều năm học, không có công trình, bài báo công bố quốc tế.

Công bố quốc tế giữa các chuyên ngành không đồng đều. Lĩnh vực khoa học xã hội có rất ít công bố ra quốc tế. Trong đợt xét công nhận GS, PGS năm 2015, chỉ có 3/28 hội đồng ngành mà 100% tân GS, PGS có công bố quốc tế (vật lý, toán học và CNTT), có 10/28 hội đồng ngành không có công bố quốc tế.

Số liệu bài báo công bố trên tạp chí danh mục ISI giai đoạn 2012-2016 của một số quốc gia khu vực Đông Nam Á:

Năm

Vietnam

Thailand

Malaysia

Indonesia

Philippine

Singapore

2012

1816

6273

84480

1423

1051

10932

2013

2309

6789

9555

1648

1172

11975

2014

2596

6999

10913

1795

1267

12508

2015

3052

7671

12341

2976

1523

13631

2016

3814

8847

14129

3748

1695

14120

Bộ GD&ĐT nhận định, Việt Nam hiện nay có khoảng 9.000 giáo sư, phó giáo sư và trên 24.300 tiến sĩ nhưng kết quả nghiên cứu khoa học của Việt Nam tụt xa so với các nước trong khu vực ASEAN.

Trong thời gian 10 năm (từ 1996 – 2005), các nhà khoa học nước ta chỉ công bố 3.456 công trình nghiên cứu khoa học trên các tạp chí thuộc danh mục ISI. Kết quả này chỉ bằng 1/5 so với Thái Lan; 1/3 so với Malaysia; và 1/14 so với Singapore. Ngoài ra, trong giai đoạn 2006 đến 2010, Việt Nam chỉ có 5 bằng sáng chế được đăng ký tại Mỹ, trung bình mỗi năm có 1 bằng sáng chế.

Một thực tế ở các cơ sở giáo dục đại học là nhiều nghiên cứu trọng điểm bị xé lẻ thành các đề tài nhỏ để chia cho nhiều tác giả. Dẫn đến các nghiên cứu trọng điểm, nhất là trong nghiên cứu cơ bản, có nguy cơ biến dạng, khó vươn lên trình độ quốc tế và khu vực.

Việt Nam hiện có tổng cộng 334 tạp chí khoa học có mã số chuẩn quốc tế (ISSN) nhưng chỉ có 26 tạp chí (chiếm 0,078%) xuất bản toàn phần hoặc một phần bằng tiếng Anh. Như vậy, số lượng các tạp chí khoa học bằng tiếng Anh của Việt Nam còn quá ít, gần 100% tạp chí khoa học của Việt Nam xuất bản bằng tiếng Việt.

Như vậy, xét trên nhiều khía cạnh, năng lực nghiên cứu khoa học của giảng viên các cơ sở giáo dục đại học còn hạn chế, ảnh hưởng tiêu cực đến việc nâng cao chất lượng đào tạo và công bố khoa học của các cơ sở giáo dục đại học.

Không nâng cao chất lượng sẽ “bị thua ngay trên sân nhà”

Hiện nay, giáo dục đại học của các nước trong khu vực và trên thế giới phát triển rất mạnh mẽ. Các trường đại học lớn với tiềm lực mạnh mẽ về nhiều mặt, có tỉ lệ giảng viên đạt trình độ tiến sĩ cao hơn hẳn các trường đại học của Việt Nam đang cạnh tranh quyết liệt với các trường đại học của Việt Nam về việc đào tạo nhân lực chất lượng cao.

Do vậy, nếu không nhanh chóng và quyết liệt thực hiện các giải pháp nâng cao năng lực cho đội ngũ giảng viên ở các CSGDĐH của Việt Nam, các CSGDĐH của Việt Nam sẽ “bị thua ngay trên sân nhà”.

Chính vì vậy, Bộ GD&ĐT đã xây dựng Đề án trình Chính phủ: "Nâng cao năng lực đội ngũ GV&CBQL các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2018-2025".

Khi thực hiện đề án, Bộ GD&ĐT sẽ có những chính sách ưu đãi, tạo điều kiện về vật chất và tinh thần để các tiến sĩ đang công tác ở nước ngoài hoặc đang làm việc ngoài các CSGDĐH đến làm việc tại các trường đại học tại Việt Nam.

Đối với bồi dưỡng cán bộ quản lý về quản trị đại học, Bộ sẽ tập trung vào nhóm cán bộ quản lý chủ chốt gồm hiệu trưởng, phó hiệu trưởng và diện quy hoạch hiệu trưởng, phó hiệu trưởng. Nhóm này có trách nhiệm dẫn dắt quá trình đổi mới tại các cơ sở giáo dục đại học và huấn luyện đội ngũ cán bộ quản lý cấp dưới.

Đối với công tác bồi dưỡng nâng cao năng lực giảng viên, Bộ sẽ tập trung vào bồi dưỡng các năng lực còn yếu của giảng viên với phương thức tập huấn chủ yếu là qua mạng internet.

Đồng thời, tiến hành rà soát đánh giá nhu cầu đào tạo tiến sĩ của các cơ sở đào tạo về số lượng, cơ cấu (theo lĩnh vực, ngành, chuyên ngành), xác định các lĩnh vực, ngành, chuyên ngành trọng tâm cần ưu tiên đầu tư đào tạo sớm với số lượng đảm bảo theo nhu cầu thực tế của công tác đào tạo nhân lực. Tuyển chọn, cử giảng viên đủ điều kiện để đào tạo đạt trình độ tiến sĩ theo các phương thức: Đào tạo toàn thời gian ở nước ngoài; đào tạo theo hình thức liên kết, phối hợp với các cơ sở đại học nước ngoài và đào tạo tiến sĩ ở trong nước.

Thu hút đối tượng giảng viên đã có trình độ tiến sĩ và tương đương đi học tiến sĩ. Đồng thời, tăng mức đầu tư, hỗ trợ cho các đối tượng học nghiên cứu sinh, có giải pháp và hỗ trợ họ đối với việc nâng cao năng lực noại ngữ, đăng bài báo quốc tế và các kinh phí cần thiết, đáp ứng yêu câu học tập nghiên cứu để trở thành tiến sĩ.

Hồng Hạnh