1. Dòng sự kiện:
  2. Thành phố Thủ Đức
  3. Máy bay quân sự rơi ở Bình Định

Trung Quốc không còn nhiều “bài” trên Biển Đông

Vừa trở về từ hội thảo an ninh Biển Đông tại Mỹ, TS Trần Trường Thủy, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Biển Đông (Học viện Ngoại giao) có cuộc trao đổi với PV về quan điểm của các học giả quốc tế trước những căng thẳng trên Biển Đông thời gian qua.

Vừa trở về từ hội thảo an ninh Biển Đông tại Mỹ, TS Trần Trường Thủy, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Biển Đông (Học viện Ngoại giao) có cuộc trao đổi với PV về quan điểm của các học giả quốc tế trước những căng thẳng trên Biển Đông thời gian qua.

 

Trung Quốc là nguyên nhân chính gây căng thẳng

 

Tại hội thảo này, Thượng nghị sĩ Mỹ Joe Lieberman chỉ trích tham vọng của Trung Quốc tại Biển Đông. Là người tham dự hội thảo, ông có thể cho biết thêm quan điểm của các học giả quốc tế về tình hình Biển Đông hiện nay và những yêu sách của Trung Quốc?

 

Tại Hội thảo quốc tế về Biển Đông tại Mỹ cũng như qua nhiều nghiên cứu, tranh luận khác, có thể thấy đa số học giả quốc tế (trừ các học giả Trung Quốc) đều cho rằng, tình hình Biển Đông căng thẳng trở lại khoảng 3 năm gần đây và yêu sách, lập trường cũng như hành động của Trung Quốc là nguyên nhân chính gây căng thẳng.

 

Trung Quốc ngày càng quyết đoán hơn, có nhiều bước đi mạnh bạo, hệ thống nhằm tạo ra sự quản lý thực tế theo Đường lưỡi bò, từ đó gây ra nhiều va chạm với các nước xung quanh.

 

Học giả Trung Quốc thì ngược lại, họ cho rằng Trung Quốc chỉ phản ứng trước hành động của các nước khác. Theo học giả Trung Quốc, các nước tranh chấp thuộc Đông Nam Á tìm cách quốc tế hóa vấn đề. Mỹ nhân cơ hội can dự sâu hơn vào khu vực, kiềm chế Trung Quốc.

 

Theo tôi, nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự khác biệt trong hai cách nhìn nhận trên là do yêu sách của Trung Quốc tại Biển Đông, nhất là yêu sách Đường lưỡi bò.

 

Trung Quốc tăng cường lực lượng hải giám, nhằm quản lý thực tế theo Đường lưỡi bò. (Ảnh: Xinhua)
Trung Quốc tăng cường lực lượng hải giám, nhằm quản lý thực tế theo Đường lưỡi bò. (Ảnh: Xinhua)



Khi Trung Quốc coi mình có quyền tài phán và kiểm soát tài nguyên theo Đường lưỡi bò, chiếm đến 80% Biển Đông, lấn sâu vào các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các quốc gia ven biển khác, biến vùng không tranh chấp thành tranh chấp, thì hệ lụy là Trung Quốc coi các hành vi khai thác tài nguyên của các nước khác là vi phạm chủ quyền của họ, do đó Trung Quốc cản phá, tạo ra nhiều tranh cãi, va chạm.

 

Cách nhìn nhận của Trung Quốc cũng tương tự như một anh chàng nhảy ra tuyên bố sân chung của cả khu phố là của anh ta, do đó nếu nhà hàng xóm nào để xe máy trước thềm nhà của họ thì anh ta cũng phản ứng, ra đạp đổ hoặc chọc phá.

 

Về yêu sách của Trung Quốc đối với Đường lưỡi bò, đa số học giả quốc tế đều cho đây là yêu sách phi lý. Trung Quốc hoàn toàn không thể biện minh được nếu dùng đường này để đòi kiểm soát tài nguyên theo toàn bộ vùng nước ở trong.

 

Trung Quốc đã ký kết Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 thì Trung Quốc có quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình và Trung Quốc cũng có nghĩa vụ tôn trọng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước khác.

 

Không thể nói đại ngôn là Công ước Luật Biển có sau thì không thể phủ nhận Đường lưỡi bò. Mà là ngược lại, các điều khoản của thỏa thuận quốc tế sẽ có hiệu lực cao hơn các quy định của nội luật (nếu có).

 

Thông thường, các quốc gia có nghĩa vụ phải sửa nội luật cho phù hợp với các điều khoản của thỏa thuận quốc tế.

 

Làm rõ thực chất chính sách của Trung Quốc

 

Tại hội thảo này, ông đã vạch rõ nguyên tắc gác lại tranh chấp, cùng khai thác của Trung Quốc thực chất luôn là “cái của tôi là của tôi, cái của anh là của tôi và chúng tôi sẵn sàng chia sẻ”. Ông có thể nói rõ hơn về nhận định này?

 

Trung Quốc luôn tuyên truyền về chủ trương gác tranh chấp, cùng khai thác tại Biển Đông, nhằm thể hiện hình ảnh hợp tác, giải quyết hòa bình các tranh chấp. Thực ra, đây không phải là sáng kiến gì mới của Trung Quốc mà luật pháp quốc tế, bao gồm cả Công ước Luật Biển, đã có quy định và thực tiễn quốc tế đã có nhiều thỏa thuận quốc tế về cùng khai thác.

 

Việt Nam cũng có dạng hiệp định này về khai thác dầu khí tại vùng chồng lấn thềm lục địa tại Vịnh Thái Lan với Malaysia, Thái Lan; hiệp định hợp tác nghề cá với Trung Quốc tại Vịnh Bắc Bộ.

 

Điểm chung là khu vực hợp tác phải là khu vực thực sự chồng lấn, các yêu sách được xác định hợp lý, hợp pháp dựa trên luật pháp quốc tế, hoặc tại các khu vực nằm vắt ngang đường ranh giới đã được xác định. Tóm lại là thỏa thuận phải mang lại công bằng cho tất cả các bên tham gia.

 

Trong khi Trung Quốc hiện nay nhấn mạnh gác tranh chấp, cùng khai thác tài nguyên ở Biển Đông, nhưng họ luôn coi chủ quyền các khu vực tranh chấp thuộc về mình.

 

Trên thực tế, Trung Quốc chủ yếu muốn cùng khai thác tại các khu vực thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước khác, ví như khu vực Tư Chính thuộc thềm lục địa của Việt Nam hay Cỏ Rong thuộc thềm lục địa của Philippines.

 

Năm 2010, tôi dự một hội thảo tại Hải Nam, Trung Quốc, học giả Trung Quốc Tề Quốc Hưng thậm chí còn đề xuất cùng khai thác cả khu vực nằm ngoài ranh giới Đường lưỡi bò (!).

 

Do đó, tại hội thảo ở Mỹ, tôi có khái quát hóa chủ trương và cách thức gác tranh chấp, cùng khai thác của Trung Quốc là “cái gì của tôi là của tôi, cái gì của anh cũng là của tôi và chúng tôi sẵn sàng cùng khai thác”, mục đích là để quốc tế hiểu rõ chính sách thực chất của Trung Quốc.

 

Họ không còn nhiều “bài”

 

Từng tham gia nhiều hội thảo, diễn đàn quốc tế về Biển Đông, ông nhận định gì về những hành động vừa qua của Trung Quốc như lập cái gọi là “thành phố Tam Sa”, mời thầu quốc tế 9 lô dầu khí nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam?

 

Các hành động vừa qua thực ra không có nhiều bất ngờ. Họ đã triển khai rất đồng bộ nhiều biện pháp trên thực địa từ mấy năm nay, nhằm mục đích quản lý thực tế theo Đường lưỡi bò, bao gồm hành chính hóa, dân sự hóa chiếm đóng; tăng cường hiện diện hải quân, tập trận; tăng cường lực lượng bán quân sự như ngư chính, hải giám; tăng cường tuần tra; tăng cường hoạt động của tàu cá; cản phá các hoạt động kinh tế về dầu khí, hải sản của các nước khác... Hai biện pháp cụ thể trên thực ra đã được tiến hành từ trước đó.

 

Năm 2007, tỉnh Hải Nam đã đề xuất thành lập thành phố Tam Sa. Còn từ năm 1992, Trung Quốc cũng đã cấp phép thăm dò dầu khí cho Cty Crestone của Mỹ tại khu vực Tư Chính thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

 

Trung Quốc cũng đã cho lưu hành bản đồ phân lô dầu khí trong toàn bộ Đường lưỡi bò từ năm 2007.

 

Các hành động vừa qua của họ cũng nằm trong logic của chính sách phản ứng như đã nói trên, nhằm trả đũa Việt Nam thông qua Luật Biển Việt Nam.

 

Có thể thấy, Trung Quốc đã chuẩn bị rất công phu, tung một lúc nhiều biện pháp (phản đối ngoại giao, nâng cấp Tam Sa, phân lô dầu khí, tuyên bố tuần tra của ngư chính, hải quân sẵn sàng chiến đấu). Mục đích của họ là nhằm răn đe Việt Nam nhưng nếu nhìn kỹ thì không thấy biện pháp nào mới.

 

Họ cũng không còn nhiều bài. Sử dụng quân sự thì lợi bất cập hại. Biện pháp mạnh hơn chắc chỉ có cho giàn khoan trong vùng thềm lục địa của Việt Nam hoặc lại tạo ra các vụ cản phá mới tương tự như vụ tàu Bình Minh 02 và Viking 02 năm 2011. Đối với các hành vi này, tôi nghĩ Việt Nam đã có cách xử lý tốt.

 

Điều đáng chú ý ở đây là tuy Trung Quốc có tính toán nhưng dường như vẫn chưa có sự phối hợp đồng bộ đối nội, đối ngoại.

 

Các biện pháp quyết đoán này được đưa ra ngay trong cuộc họp giữa ASEAN và Trung Quốc về triển khai Tuyên bố ứng xử các bên tại Hà Nội và trước các cuộc họp quan trọng trong khuôn khổ ASEAN tại Phnom Penh (Campuchia).

 

Việc này sẽ ảnh hưởng đến các nỗ lực của Trung Quốc không muốn đưa vấn đề Biển Đông ra bàn thảo tại các diễn đàn đa phương, nhất là tại Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF).

 

Biển Đông là vấn đề của khu vực

 

Nhiều chuyên gia cho rằng, những hành động tiếp theo của Trung Quốc không hoàn toàn phụ thuộc vào họ mà còn phụ thuộc vào phản ứng của Việt Nam và cộng đồng thế giới. Ông nghĩ sao?

 

Hành động tiếp theo của Trung Quốc tại Biển Đông liên quan đến nhiều nhân tố đối nội và đối ngoại. Về đối nội, các nhóm lợi ích như: hải quân, ngư chính, hải giám, các tỉnh giáp Biển Đông, các công ty dầu khí tăng cường hoạt động, cạnh tranh gây ảnh hưởng và ngân sách.

 

Lãnh đạo Trung Quốc hiện nay cũng cần sự đồng thuận để điều chỉnh chính sách bởi họ không còn những cá nhân tự quyết một mình như trước. Vì thế Trung Quốc phải dung hòa nhiều quan điểm và lợi ích khác biệt.

 

Về đối ngoại, Trung Quốc phải giải quyết một lúc nhiều mâu thuẫn giữa việc thúc đẩy hình ảnh phát triển hòa bình và việc thực thi chính sách quyết đoán tại Biển Đông; giữa việc duy trì cơ hội chiến lược cho phát triển và nhu cầu vươn ra ngoài, nhất là về hải quân; giữa việc duy trì quan hệ láng giềng hữu nghị với các nước ASEAN, không để các nước ASEAN đi với Mỹ, với nhu cầu kiểm soát theo Đường lưỡi bò.

 

Do đó, phản ứng của cộng đồng quốc tế, trong đó có Việt Nam sẽ tác động lên chính sách và hành vi của Trung Quốc tại Biển Đông; tác động trực tiếp lên giới hoạch định chính sách và các nhóm lợi ích.

 

Nếu Trung Quốc nhận thấy hành vi của họ tại Biển Đông sẽ là thuốc thử về con đường phát triển hòa bình của Trung Quốc, Trung Quốc càng hung hăng tại Biển Đông thì ASEAN càng e ngại, tăng cường hợp tác với Mỹ; Trung Quốc càng ỷ sức thì sức mạnh mềm của Trung Quốc càng giảm sút- thì Trung Quốc sẽ phải đặt Biển Đông trong đại chiến lược phát triển của mình để có các bước đi mềm mỏng, trước hết là để phục vụ lợi ích lâu dài của Trung Quốc và qua đó giữ hòa bình, ổn định ở khu vực.

 

Một trong những cách thức để đạt mục tiêu này là cần biến vấn đề Biển Đông thành vấn đề của khu vực và của quốc tế.

 

Cám ơn ông. 

Theo Hà Nhân
Tiền phong

Thông tin doanh nghiệp - sản phẩm