“Trung Quốc chiếm đóng, quân sự hóa Biển Đông, đe dọa hòa bình chung”
(Dân trí) - Chủ tịch Hội luật Quốc tế Việt Nam Nguyễn Bá Sơn phân tích, việc Trung Quốc chiếm đóng rồi từng bước xây dựng các đảo nhân tạo và quân sự hoá một cách bất hợp pháp khu vực quần đảo Trường Sa chính là nguyên nhân đe dọa hòa bình chung.
Ngày 29/10, Chủ tịch Hội luật Quốc tế Việt Nam (VSIL) Nguyễn Bá Sơn gửi thư phúc đáp Chủ tịch Hội luật Quốc tế Trung Quốc (CSIL) Hoàng Tiến về vi phạm của nhóm tàu Hải Dương Địa chất 8 trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam từ đầu tháng 7 cho đến cuối tháng 10 vừa qua.
Việt Nam có chủ quyền không thể tranh cãi đối với Hoàng Sa, Trường Sa
Trong bức thư vừa gửi, TS. Nguyễn Bá Sơn khẳng định trao đổi với Chủ tịch CSIL trên tinh thần nghiêm túc, khách quan khoa học, tôn trọng sự khác biệt quan điểm về các vấn đề pháp lý và cả các khía cạnh chính trị liên quan đến tranh chấp giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc tại Biển Đông. Ông Sơn bác bỏ những luận điểm người đồng cấp Trung Quốc đã nêu trong bức thư ngày 19/9 gửi cho ông sau khi ông gửi thư lần đầu (ngày 24/8) lên án hành vi ngang ngược tại Biển Đông của Trung Quốc.
Trước hết, về việc Chủ tịch CSIL phê phán Hội luật quốc tế Việt Nam lảng tránh đề cập đến vấn đề chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Trường Sa và cho rằng vấn đề đó “phải được giải quyết trước tiên”, TS. Nguyễn Bá Sơn nhận định, đây là “một sự hiểu lầm hoàn toàn”.
TS. Sơn viết cho người đồng cấp, vấn đề chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa không có sự liên quan, cả về pháp lý hay địa lý đối với khu vực biển nơi Trung Quốc đang có những hành vi xâm phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam.
Chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa đã được Chính phủ Việt Nam khẳng định nhiều lần, dựa trên những chứng cứ lịch sử - pháp lý vững chắc như đã được trình bày trong các Sách trắng về Chủ quyền của Việt Nam, xuất bản trong các năm 1975, 1979, 1981 và 1988.
TS. Sơn nhấn mạnh, chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng đã được nhiều luật gia, sử gia quốc tế phân tích và công nhận, thể hiện ở nhiều văn bản, ví dụ như cuốn sách “Sovereignty over the Paracel and Spratly Islands” của Giáo sư Luật quốc tế người Pháp Monique Chemillier-Gendreau xuất bản lần đầu bằng tiếng Pháp năm 1986 (bản dịch tiếng Anh năm 2000), hay cuốn sách “The South China Sea: The Struggle for Power in Asia” của nhà nghiên cứu người Anh Bill Hayton xuất bản năm 2014.
Trung Quốc chiếm đóng, quân sự hóa Trường Sa làm căng thẳng Biển Đông
Chủ tịch VSIL bác bỏ hoàn toàn việc ông Hoàng Tiến cho rằng, từ những năm 1970, Việt Nam “từng bước chiếm đóng một cách phi pháp một số đảo và bãi ngầm” thuộc quần đảo Trường Sa và đó là “nguyên nhân gây ra tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc và Việt Nam”.
“Từ thế kỷ 17, các Chúa Nguyễn đã thực thi chủ quyền của Việt Nam thông qua việc cử các đội Hoàng Sa - Bắc Hải ra khai thác hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tiếp theo, các Hoàng đế nhà Nguyễn đã cử các đội hải quân ra vẽ bản đồ, cắm cột mốc chủ quyền trên hai quần đảo này... Trong giai đoạn chủ nghĩa thực dân thống trị, nước Pháp thay mặt cho Việt Nam quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sau đó, Việt Nam Cộng hòa tiếp quản và quản lý hai quần đảo này từ nước Pháp theo quy định của Hiệp định Geneva năm 1954. Việc tiếp quản quần đảo Trường Sa vào mùa xuân năm 1975 và những hoạt động bình thường của Việt Nam trong khu vực quần đảo Trường Sa sau khi đất nước đã hòa bình, thống nhất là hoàn toàn phù hợp với luật quốc tế và không có một quốc gia nào phản đối, kể cả Trung Quốc, thì sao có thể nói là “phi pháp” được?” – TS. Nguyễn Bá Sơn đặt câu hỏi cho người đồng cấp Trung Quốc.
Ngược lại, Chủ tịch Hội luật quốc tế Việt Nam cũng chỉ rõ, vào các năm 1974 và 1988, với những hành động bị luật quốc tế nghiêm cấm, phía Trung Quốc đã dùng vũ lực chiếm đóng một số đảo và thực thể (đảo đá, bãi cạn) trong khu vực hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Việc Trung Quốc chiếm đóng, rồi từ đó đến nay, từng bước xây dựng các đảo nhân tạo và quân sự hoá một cách bất hợp pháp một số đảo đá và bãi cạn thuộc khu vực quần đảo Trường Sa mới chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình hình căng thẳng, đe dọa hòa bình và ổn định tại Biển Đông và trong khu vực.
Ông Sơn “truy vấn”: “Chẳng lẽ những hành động bị các quốc gia trên thế giới và Việt Nam lên án đó lại có thể gọi là hợp pháp và tạo thành cơ sở cho phía Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ đối với hai quần đảo và rồi sử dụng nó để đòi hỏi một vùng biển rộng lớn chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam được xác lập phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS)?”.
Không công nhận phán quyết vụ kiện Biển Đông, Trung Quốc vi phạm Luật Biển 1982
Đồng ý với việc nhấn mạnh “nguyên tắc chấp thuận” của quốc gia trong việc giải quyết các tranh chấp quốc tế và nguyên tắc “đất thống trị biển” để xác định các quyền trên biển của quốc gia mà ông Hoàng Tiến đã nêu trong thư trả lời VSIL, TS. Nguyễn Bá Sơn cũng nhấn mạnh, với việc từ chối tham gia vụ kiện trọng tài Biển Đông với Philippines và tuyên bố không công nhận giá trị ràng buộc của phán quyết của Tòa trọng tài theo Phụ lục 7 UNCLOS, chính phía Trung Quốc đã vi phạm nguyên tắc chấp thuận mà quốc gia với tư cách là thành viên UNCLOS cần tuân thủ.
Liên quan đến hai văn kiện chính trị song phương và đa phương là thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc” và tuyên bố ứng xử trên Biển Đông giữa các nước ASEAN và Trung Quốc (DOC), TS. Nguyễn Bá Sơn nhấn mạnh nguyên tắc, đàm phán và hiệp thương hữu nghị là biện pháp ưu tiên trong việc giải quyết hoà bình mọi tranh chấp, bất đồng giữa các quốc gia.
Là một cựu quan chức của Bộ Ngoại giao Việt Nam, đã nhiều năm tham gia đàm phán với Trung Quốc về vấn đề biên giới lãnh thổ, bao gồm cả tranh chấp Biển Đông, ông Sơn chia sẻ thành tâm mong muốn hai nước có thể thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị để giải quyết các tranh chấp bất đồng còn tồn tại.
Ông Sơn cũng niềm tin vững chắc là các cuộc trao đổi khoa học nghiêm túc, trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau sẽ góp phần làm cho nhân dân hai nước và cộng đồng quốc tế có cái nhìn toàn diện và chính xác hơn về nguyên nhân cũng như biện pháp giải quyết tình hình căng thẳng hiện nay trên Biển Đông.
“Là hai tổ chức phi chính phủ, CSIL và VSIL không thể thay mặt cho chính phủ. Nhưng với vai trò là hai tổ chức tập hợp các chuyên gia và giới nghiên cứu về luật quốc tế, tôi tin rằng thông qua những cuộc trao đổi quan điểm một cách khoa học và khách quan, CSIL và VSIL có thể có những đóng góp tích cực vào việc vun đắp tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước, xây dựng niềm tin, củng cố hòa bình, ổn định trên Biển Đông và trong khu vực, đáp ứng lòng mong đợi của tất cả các quốc gia trên thế giới” – TS. Sơn nhắn nhủ người đồng cấp.
Phương Thảo