1. Dòng sự kiện:
  2. Thành phố Thủ Đức
  3. Máy bay quân sự rơi ở Bình Định

Sức mạnh của những bức ảnh trong cuộc chiến ở VN

Tim Page là một trong những phóng viên ảnh nổi tiếng thời chiến tranh Việt Nam, bắt đầu sự nghiệp ở Lào năm 1964, khi mới 18 tuổi. Ông trở thành phóng viên ảnh mẫu mực trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam và những bức ảnh của ông trở thành nguồn cảm hứng của nhiều bộ phim thời kỳ đó.

"Cuộc chiến ở Việt Nam là cuộc chiến đầu tiên được các phóng viên độc lập tường thuật, cuộc chiến đầu tiên được chụp ảnh màu, cuộc chiến đầu tiên được tường thuật qua truyền hình, và cuộc chiến đầu tiên không bị kiểm duyệt", Tim Page nói về báo ảnh trong cuộc chiến tranh cách đây hơn 30 năm.

 

Khi ông tới Việt Nam vào tháng 2/1965, ấn tượng đầu tiên của ông về Việt Nam là gì?

 

Thật là khó nói, vì lúc đó Việt Nam còn mang nhiều sắc thái của Pháp và chiến tranh còn chưa in những dấu ấn đậm nét như vài năm sau đó. Miền nam Việt Nam vẫn là một nơi đầy lính Mỹ và giao thông tấp nập. Người ta có cảm giác nơi đây vẫn là một thuộc địa của Pháp.

 

Xin ông kể lại một vài kỷ niệm đáng nhớ nhất về thời gian ông có mặt tại Việt Nam làm phóng viên nhiếp ảnh chiến tranh?

 

Tôi không thể nói một sự kiện nào là quan trọng nhất trong ký ức của tôi. Nếu chúng ta hỏi bất cứ ai đã từng có mặt tại Việt Nam trong thời gian đó, họ đều khó có thể đưa ra một sự kiện nổi bật nhất.

 

Có hai điều phải nhắc tới, đó là được là một nhân chứng, được chứng kiến cuộc chiến diễn ra, đấy là một đặc ân vô cùng to lớn. Chính tôi cũng đã bị thương 4 lần, trải qua những đau đớn, đồng thời được có mặt tại một đất nước mà người dân đầy lòng vị tha, tập làm quen với những tình huống có thể nói cực kỳ điên rồ trút xuống đầu họ.

 

Để sống thì đây cũng là một nơi tuyệt vời, vì Việt Nam là một đất nước rất đẹp, con người cũng đẹp, đồ ăn thức uống rất ngon.

 

Là một thanh niên mới 21 tuổi khi tới Việt Nam hồi chiến tranh, ông đã làm thế nào để đương đầu và bám trụ với cuộc chiến?

 

Hoặc là trụ được hoặc là không. Bạn buộc phải đương đầu thôi vì như chúng tôi vẫn nói, phải đè nén nỗi sợ hãi, nếu không nó sẽ bao trùm, vượt lên trên chính bạn và bạn sẽ không thể bước ra để chụp thêm một bức ảnh nào nữa.

 

Còn bản thân tôi, có lẽ là sau khi có mặt tại chiến trường, chứng kiến cảnh người chết trong cuộc chiến, chụp những bức ảnh vô giá mang về, thì chúng tôi ngồi xuống với nhau, hút điếu thuốc lá, uống chút gì đó và nói về những điều đã chứng kiến, cố gắng thư giãn, cố không nghĩ tới những chuyện đã xảy ra tại chiến trường. Nhưng vẫn biết rằng, ngày mai hay ngày kia, sẽ lại phải bước ra đối mặt với nó.

 

Ông đã bị thương nhiều lần và vài lần thương nặng tưởng chết, cảm giác của ông ra sao khi trở lại chiến trường sau mỗi lần bị thương như vậy?

 

Khi còn trẻ, người ta thường tin rằng mình được Thượng đế hay một thánh nhân nào đó phù hộ. Nhưng đến khi bị thương thì bỗng nhận ra rằng, mình cũng chỉ làm bằng xương bằng thịt như những người khác. Mối đe dọa đó đến từ mọi phía, vào mọi thời điểm, bất kể ngày hay đêm. Và cách duy nhất để bảo vệ mình là tự tạo ra một vỏ bọc che chắn tâm trí của mình trước những đe dọa đó.

 

Vì thế sau mỗi lần bị thương, khi phải trở lại đối mặt với cuộc chiến thì việc tiếp tục làm việc ngày càng trở nên khó khăn hơn. Tới một lúc nào đó bạn tự nhủ rằng chỉ có thể chịu đựng tới mức này thôi, không thể chịu đựng thêm được nữa.

 

Điều gì đã khiến ông tiếp tục, có phải vì danh tiếng, vì tính mạo hiểm, hay vì một lý tưởng nào đó?

 

Đây là một câu hỏi khó trả lời vì khi con người ta trưởng thành hơn, già dặn hơn, thái độ chính trị của ta cũng dần thay đổi. Vào thời điểm khi tôi trở lại Việt Nam hồi năm 1968, tôi đã ở Mỹ và đã chụp ảnh tường thuật phong trào chống chiến tranh. Tôi trở thành người có tư tưởng chống chiến tranh hơn, và đối với tôi toàn bộ cuộc chiến trở nên điên rồ và vô nghĩa lý hơn.

 

Vì thế những đề tài tôi chụp thường trở nên mang tính chống chiến tranh mạnh mẽ hơn. Thực sự nói cho cùng thì tất cả các hình ảnh về chiến tranh đều trở thành những hình ảnh chống chiến tranh cả. Tôi bắt đầu tìm kiếm những hình ảnh để thể hiện thái độ chỉ trích, nhạo báng chiến tranh và cho thấy thực chất chiến tranh là gì.

 

Chiến tranh ở Việt Nam là độc nhất vô nhị, vì nó kéo dài rất lâu. Người ta sống cùng chiến tranh, và bước vào cuộc chiến như đi làm vậy. Trên phương diện ấy thì nó quả là một kinh nghiệm thật khác thường.

 

Càng ở đó lâu bao nhiêu thì người ta càng nhận ra những nỗ lực thực dân hóa của Mỹ qua việc ném bom Campuchia và dùng B52 ném bom Việt Nam là một điều vô nghĩa lý vì đây là một cuộc chiến không thể thắng được.

 

Ông tin rằng các phóng viên nhiếp ảnh, các nhà báo có thể thay đổi được chiến cuộc?

 

Tôi cho rằng vào thời kỳ đó, chúng tôi đã làm thay đổi cuộc chiến qua những tường thuật rất nhiều về cuộc chiến tranh Việt Nam.

 

Những bức ảnh chúng tôi chụp được đã làm thay đổi thái độ của công chúng về cuộc chiến, mà đặc biệt quan trọng là của công chúng tại Mỹ, rồi tại châu Âu, Nhật Bản, Australia và những nơi khác nữa. Thậm chí tới ngày nay, nếu ta hỏi những người ở một độ tuổi nhất định, những người đã từng biết chừng gần một chục tấm ảnh về chiến tranh Việt Nam thì những hình ảnh đó vẫn còn ghi lại trong trí nhớ của họ.

Ông ở Việt Nam ba năm từ năm 1965 tới 1967 và sau đó ông trở lại vào năm 1968, cũng vẫn trong thời gian có chiến tranh. Lần đầu tiên ông trở lại Việt Nam sau chiến tranh là năm 1980. Vậy cảm tưởng của ông về một nước Việt Nam ngày nay là gì?

 

... Được thấy một đất nước đã từng bị tàn phá thảm khốc vì một cuộc chiến tranh hiện đại và được thấy đất nước đó phục hồi quả là một điều kỳ diệu.

 

Nhiều người thuộc thế hệ trẻ ngày nay không biết gì về chiến tranh ngoài những gì qua sách vở và trên phương diện đó thì tôi cho rằng nghĩa vụ của chúng ta là phải đem lại cho họ một hình ảnh chính xác về cuộc chiến, về lịch sử.

 

Xin hỏi ông một câu cuối cùng, ông có nghĩ là Mỹ cần phải giúp giải quyết hậu quả chiến tranh, như trong vấn đề chất độc da cam, hay giúp những thương binh do cuộc chiến?

 

Tôi cho rằng trong vấn đề chất độc da cam thì chắc chắn là nên. Các cựu chiến binh Mỹ tham gia cuộc chiến Việt Nam đã bị ảnh hưởng do chất độc da cam trong thời gian chiến tranh đã kiện và được bồi thường những khoản tiền đáng kể cho chính bản thân họ hay cho các thân nhân của họ. Có sự cố tình tách biệt những người này với những nạn nhân chất độc da cam tại Việt Nam.

 

Theo tôi cách tốt hơn cả là nên mở cửa, cởi mở hơn. Mỹ trong suốt một thời gian dài đã áp dụng chính sách cấm vận với Việt Nam, trong khi tốt hơn cả là tạo công ăn việc làm và có một nền kinh tế lành mạnh và như thế có nghĩa là các cựu chiến binh có thể được xã hội trông nom. Quá khứ đã qua và tôi cho rằng mọi người cần được sống trong hòa bình.

 

Theo VnExpress, BBC

Thông tin doanh nghiệp - sản phẩm