“Rừng thiêng” ở Điện Biên
(Dân trí) - Có một khu rừng như thế/ Với người dân thắm thiết ruột rà/ Dân trìu mến gọi “rừng Đại tướng”/ Sớm tối giữ gìn như mảnh vườn riêng (Nhạc sĩ Doãn Nho).
Là một cây bút tự do, không chức sắc, không bị bó buộc gì về lễ nghi, giờ giấc, tôi dễ dàng du lịch ba-lô, đi “phượt” thỏa thuê, thuê xe ôm đến tất cả những nơi nào mà tôi muốn đến trong vùng lòng chảo Điện Biên này, suốt những ngày ở lại đây. Anh lái xe ôm cho tôi tên là Sương, người Thái ở bản Ta Pô, từng đi bộ đội thời chống Mỹ. Sáng sáng anh ghếch xe đứng chờ tôi ở chỗ ngã ba “chợ Trung tâm”.
Ngoài nghĩa trang liệt sĩ bên đồi A1, tôi còn đến thắp hương tại các nghĩa trang khác trên đồi Him Lam, đồi Độc Lập; hai nghĩa trang này còn lớn hơn nghĩa trang bên đồi A1. Chỉ riêng tại Nghĩa trang đồi Độc Lập đã có tới 2.000 mộ liệt sĩ.
Nhiều đoạn đường đang được thi công mở rộng, đổ đá hộc lổn nhổn. Tôi phải xuống xe, đi bộ. Còn anh Sương thì hì hục dắt xe theo. Vất vả, hại xe, thế mà anh vẫn chỉ lấy tiền công rất rẻ. Anh bảo chính anh cũng muốn đến thăm “rừng Đại tướng” bởi vì anh đã từng là “lính của Tướng Giáp” thời đánh Mỹ.
Sở Chỉ huy xưa đặt dưới tán rừng cổ thụ mà đến nay vẫn chưa bị chặt phá do ý thức của người dân coi đây là chốn “rừng thiêng”, là mảnh “vườn nhà” phải giữ gìn, chăm chút. Bà con thường gọi khu rừng này là “rừng Đại tướng”, gọi vị Tổng Tư lệnh quân đội ta thuở ấy là “già bản Võ Nguyên Giáp", gọi căn hầm, cái lán nơi Đại tướng làm việc là “nhà của già bản Võ Nguyên Giáp”. Cách gọi trìu mến biết bao! Những tên gọi đã đi vào dã sử, huyền thoại.
Các di tích gần đây đã được phục hồi. Tôi dừng lại hồi lâu trước cái lán và hầm xuyên núi của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Từ căn hầm này đi ra triền núi phía sau, trèo lên đỉnh, có thể trông rõ mồn một cánh đồng Mường Thanh và các cứ điểm trước kia của quân Pháp như đồi Him Lam, đồi Độc Lập, đồi D1, đồi C1, đồi A1, cầu Mường Thanh...
Theo con đường mòn rải đá cuội dưới tán rừng, tôi lần lượt đi thăm lán và hầm của Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái, lán và hầm của Ban Chính trị do đồng chí Lê Liêm phụ trách, rồi lán và hầm của các cố vấn Trung Quốc...
Nhiều người trong chúng ta đã biết, chính tại Sở Chỉ huy ở Mường Phăng này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đi tới “quyết định khó khăn nhất” trong cuộc đời chỉ huy của ông: thay đổi phương châm tiêu diệt địch từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”.
Ông nhớ tới lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi tiễn ông ra trận: “Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng. Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng, không đánh”. Ông cũng nhớ một câu trong Nghị quyết của Trung ương Đảng ta hồi đầu năm 1953:“Chiến trường ta hẹp, người của ta không nhiều, cho nên ta chỉ được thắng, không được bại, vì bại thì hết vốn”.
Trung Quốc khác ta, nước bạn đất rất rộng, người rất đông; còn nước ta đất hẹp, người không nhiều. Sẽ là giáo điều nếu ta cứ máy móc rập khuôn chiến thuật “biển người” (nhân hải) của bạn. Lúc bấy giờ ta chỉ mới có sáu đại đoàn chủ lực. Hầu hết các đại đoàn đều có mặt ở Điện Biên Phủ. Bộ đội ta, cho đến lúc đó, chỉ mới đánh trận tiêu diệt chiến ở mức cao nhất là diệt gọn một tiểu đoàn địch tăng cường, trong công sự. Trong khi ở Điện Biên Phủ địch đóng tới 21 tiểu đoàn tinh nhuệ liên kết, cố thủ trong một tập đoàn cứ điểm bê-tông cốt thép, mạnh nhất Đông Dương.
Chủ lực ta lại chỉ quen đánh ban đêm ở địa hình dễ ẩn náu, chưa có kinh nghiệm tác chiến ban ngày trên địa hình bằng phẳng như giữa cánh đồng Mường Thanh, với một kẻ địch có ưu thế về máy bay, pháo binh và xe tăng.
Bằng trực giác cũng như qua phân tích khoa học “lạnh lùng”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đi đến kết luận nếu “đánh nhanh”, ta sẽ thất bại, chịu tổn thất nặng nề, thậm chí “hết vốn”!
Vẫn giữ vững quyết tâm tiêu diệt địch, nhưng ta phải thay đổi cách đánh. Và, như vậy, phải ra lệnh hoãn giờ phát hoả mở màn chiến dịch, cho bộ đội trên toàn mặt trận lui về địa điểm tập kết, kéo pháo ra! Để có thêm thời gian chuẩn bị kỹ càng hơn, thận trọng hơn.
Lui quân ngay giữa lúc toàn quân đang hừng hực khí thế muốn tiêu diệt ngay lập tức 16 nghìn quân địch, phần lớn là lính Âu - Phi tinh nhuệ tại tập đoàn cứ điểm này… “chỉ trong vòng ba đêm, hai ngày, bất chấp mọi tổn thất”!
Hơn nửa thế kỷ sau, tôi mới có dịp đến Mường Phăng, chầm chậm rảo bước trên lối mòn dưới tán rừng nguyên sinh vạn tuổi, cây cổ thụ cao vút, trầm mặc, uy nghiêm, để cố hình dung lại thật chi tiết, thật cặn kẽ, rồi suy ngẫm về phút giây Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Bộ Chỉ huy Chiến dịch đi tới quyết định sống còn, một quyết định đã được lịch sử xác nhận là tỉnh táo, sáng suốt, dẫn tới thắng lợi hoàn toàn của trận tiêu diệt chiến lớn nhất của dân tộc ta ở thế kỷ XX, một chiến công ngang tầm Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa trong lịch sử nghìn năm giữ nước. Trong lòng tôi bỗng như ngân vang ca khúc Có một khu rừng như thế của nhạc sĩ quân đội Doãn Nho:
Có một khu rừng như thế
Với người dân thắm thiết ruột rà.
Dân trìu mến gọi “rừng Đại tướng”
Sớm tối giữ gìn như mảnh vườn riêng...
Suốt cả đời mình gắn liền trận mạc,
Vẫn một niềm: mang ơn nhân dân...
Vị Tư lệnh tối cao quý từng giọt máu đào người lính.
Nên suốt đời được gọi Anh Văn...
Là vị võ tướng nhưng lại mang tên Văn. Anh Văn, cái tên thân thiết với bao chiến sĩ, bao “anh bộ đội Cụ Hồ”, bởi vì Anh là một người học trò gần gũi của Bác, một nhà cách mạng giàu phẩm chất nhân văn...
Hàm Châu