Những nguy hại từ việc nước sông Mekong dâng cao bất thường trong mùa khô

Phạm Tâm

(Dân trí) - ĐBSCL đang mùa khô nhưng nước sông Mekong dâng cao do các đập thủy điện tăng xả. Theo chuyên gia, việc này có thể giúp ĐBSCL giảm hạn mặn trước mắt nhưng về lâu dài rất nhiều tác hại.

Theo cập nhật của Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam (SIWRR), mực nước tại trạm Tân Châu (sông Tiền) ngày 14/4 đạt 1,16 m, cao hơn trung bình nhiều năm 0,06 m và cao hơn những năm gần đây cùng thời điểm.

Tại trạm Châu Đốc (sông Hậu), mực nước đạt 1,36 m, cao hơn trung bình nhiều năm 0,12 m và cao hơn cùng thời điểm mấy năm gần đây. 

Những nguy hại từ việc nước sông Mekong dâng cao bất thường trong mùa khô - 1

Theo chuyên gia, nhiều người dễ lầm tưởng thủy điện có tác dụng tốt cho đồng bằng, trong khi về lâu dài rất nhiều tác hại (Ảnh: HT).

SIWRR dự báo, dòng chảy bình quân về Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) từ tháng 4 đến cuối mùa khô ở mức cao hơn trung bình nhiều năm bởi ảnh hưởng của việc xả nước gia tăng từ thủy điện Trung Quốc và hạ lưu Mekong, điều này có tác động tích cực khi giúp giảm xâm nhập mặn vào tháng 4 và 5.

Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện - chuyên gia nghiên cứu độc lập về sinh thái ĐBSCL - cho biết: Nước sông Mekong mùa khô năm 2022 cao hơn bình thường do các đập thủy điện trên sông Mekong tích nước nhiều trong mùa mưa năm 2021.

Cuối mùa nước năm ngoái, 45 đập đã gần đầy nước. Đến mùa khô năm 2022, các đập thủy điện trên lưu vực xả nước để phát điện làm cho dòng chảy mùa khô trên sông Mekong cao hơn bình thường.

"Việc tích xả này là vì lợi ích của nhà đầu tư đập chứ không phải vì lợi ích phục vụ cho người dân trong vùng. Việc xả nước trong mùa khô làm giảm hạn mặn cho vùng ven biển ĐBSCL, nhưng cũng có rất nhiều tác động tiêu cực" - ông Thiện nói. 

Phân tích về những tác hại của việc xả nước trong mùa khô, vị chuyên gia nêu rõ:

Thứ nhất, việc tích nước trong mùa lũ làm cho dòng chảy lũ yếu đi, không còn sức mạnh tải bùn cát, phù sa về ĐBSCL. Phù sa, bùn cát về được ĐBSCL chủ yếu là nhờ dòng chảy mạnh vào tháng 7, 8, 9. Từ nay, các đập làm cho dòng chảy lũ trong các tháng này yếu đi, không còn đủ mạnh để tải phù sa. Đặc biệt, cát rất khó di chuyển về ĐBSCL, cát rất nặng, chỉ di chuyển ở đáy sông, dòng chảy yếu thì không tải nổi nữa.

Thiếu phù sa, thiếu cát sẽ gây sạt lở bờ sông, bờ biển ở ĐBSCL. Cát sẽ ngày càng khan hiếm không còn đủ để đáp ứng được nhu cầu xây dựng nhà cửa, đường sá. Giá cát sẽ càng ngày càng tăng cao; trong khi sạt lở làm mất nhà cửa, đe dọa tính mạng người dân. Về lâu dài, sạt lở đe dọa chính sự tồn tại của ĐBSCL.

Thứ hai, việc tích nước vào mùa lũ của các đập thủy điện làm biến mất mùa lũ, phù sa không về từ đó đất đai bạc màu, mất nguồn thủy sản tự nhiên vào mùa nước nổi.

Thứ ba, thủy điện xả nước từng đợt trong mùa khô khiến mực nước biến động bất thường, tạo ra những tín hiệu giả của dòng sông, làm cho hệ sinh thái rối loạn. Ví dụ, giữa mùa khô nước dâng lên bất thường sẽ khiến cá, tôm tưởng mùa nước đã tới nên bơi ngược dòng để sinh sản; khi mùa nước thật đến thì chúng không sinh sản được nữa.

Thứ tư, việc xả nước giúp đẩy hạn, mặn cho ĐBSCL nhưng chập chờn, bất thường, không ổn định. Lưu ý rằng, năm nay là năm có đủ nước trong các đập thì chuyện xả nước để phát điện trong mùa khô mới có thể giúp giảm hạn mặn cho ĐBSCL. Nếu gặp tình huống năm khô hạn như mùa khô 2016 và 2020 thì là câu chuyện khác. Khi gặp tình huống khô hạn thì không đủ độ sâu để chạy tua-bin, các đập sẽ phải đóng để chờ cho nước dâng lên đủ độ sâu mới xả để phát điện, tức là phát điện gián đoạn.

Đập trên xả thì đập dưới phải chờ. Đập dưới xả thì đập kế tiếp chờ. Cứ như thế, nước đi qua một chuỗi đập rất lâu. Do đó nếu gặp tình huống như 2016 và 2020 thì thủy điện làm cho tình hình hạn mặn gay gắt càng tồi tệ thêm.

"Nếu chỉ nhìn việc xả nước của thủy điện làm giảm hạn mặn cho ĐBSCL trong mùa khô năm nay, người ta dễ lầm tưởng thủy điện có tác dụng tốt cho đồng bằng, trong khi thực tế về lâu dài tác hại rất nghiêm trọng nên cần nhìn bức tranh cho đầy đủ" - ông Thiện nói.