Hiểu về trái tim: Sự nghi ngờ bắt đầu từ đâu? (kỳ 3)
(Dân trí) - Mỗi khi phát sinh ý niệm nghi ngờ kẻ khác, dù họ có xấu thật hay không, thì trong tâm ta đã tạo ra một nguồn năng lượng rất độc hại.
Thực tại kỳ bí
Thật khó có thể tin được rằng những gì chúng ta thấy trong giây phút hiện tại đều không đúng như chính đối tượng ấy đang là. Đó là lời cảnh báo của khoa học. Chúng ta có đức tin rất lớn nơi những thành tựu khoa học, nhưng khoa học vẫn tự nhận mình còn rất nhiều hạn chế, nhất là sự hoang mang đến khủng hoảng về bản thể học (ontology) của thế giới chúng ta. Khoa học chưa biết được một cách chính xác bản chất của mọi hiện tượng thực ra là gì, hội tụ trên những điều kiện đủ nào để biểu hiện. Immanuel Kant, triết gia người Đức, đã phát biểu: “Cái mà chúng ta biết về thực tại là do chúng hiện lên đúng như trình độ mà chúng ta thấy về nó. Thực tại là chính nó, chúng ta không bao giờ biết được với tính chất là một hiểu biết khoa học”. David Bohm, một nhà lượng tử xuất sắc của Mỹ, cũng đồng thuận ý kiến trên và bổ sung rằng: “Các hạt điện tử mà chúng ta (các nhà khoa học) nhìn thấy chợt ẩn chợt hiện và thay đổi cấu trúc liên tục là do chúng bị điều khiển bởi trường lượng tử (quantum potential)”. Và theo David Bohm, trường lượng tử này không bị giới hạn bởi không gian, nó có chứa tâm chứa thức và tác động lên nhau tức thì.
Như vậy, những gì mà chúng ta cho là đúng đắn chỉ có giá trị tương đối trong nhận thức của con người mà thôi. Và cái đúng ấy lại bị giới hạn một lần nữa bởi trình độ mỗi người và cả thời gian. Bởi thực tại luôn vận động và liên kết, còn ta lại chủ trương cố định và biệt lập. Cũng như hiểu biết của ta về dòng sông chắc chắn khác xa với hiểu biết của con cá. Và một người đang khát cháy nhìn dòng sông cũng không giống với một người đang ngồi trên du thuyền, hay một người muốn kinh doanh thủy điện. Thi sĩ nào đó đã cho rằng “Chỉ có dòng sông mới hiểu được mình”. Nhưng cũng chưa chắc. Vì chính ta đây cũng đâu hiểu về ta bao nhiêu. Lúc thương ta thấy khác, lúc ghét ta thấy khác, lúc vui ta thấy khác, lúc buồn ta thấy khác. Và tất nhiên cái thấy của một nghệ sĩ cũng rất khác với cái thấy của một doanh nhân, cái thấy của một nhà tâm linh rất khác với cái thấy của một nhà chính trị. Vậy đâu mới là cái thấy đúng đắn nhất? Không có cái thấy nào đúng đắn nhất cả. Sống giữa thế giới tương đối thì chúng ta phải chấp nhận cái thấy tương đối. Đó cũng là lý do tại sao ta chỉ có được hạnh phúc tương đối, nghĩa là hạnh phúc luôn bị điều kiện hóa. Chỉ khi nào ta có khả năng vượt thoát chính phiền não bảo vệ cái tôi hiểu lầm là biệt lập này, để chấp nhận vạn vật trên khắp vũ trụ đều là thân mạng của mình, thì chừng ấy ta mới có được tầng nhận thức siêu việt và đúng với thực tại.
Vậy mà chúng ta luôn tự cho mình tài giỏi, đã hiểu biết tất cả. Có được bằng tiến sĩ thì sao? Ta biết cơn giận của ta từ đâu tới và được điều khiển bởi những nguồn lực nào không? Những hiểu biết về thế giới nội tâm của chúng ta có phải là vấn đề phi thực tế không? Nó có ảnh hưởng trực tiếp đến phẩm chất đời sống của ta không? Hy sinh chừng ấy năm trời chỉ để nắm bắt những thứ còn nằm trong sự may rủi của hoàn cảnh thì chẳng oan ức lắm sao? Oan ức hơn nữa là sống giữa cái giả mà ta ngờ là thật, hay sống giữa cái thật mà ta cứ nghi là giả.
Từ chối sự thật
Trong truyện cổ Phật giáo Ấn Độ có kể một câu chuyện thương tâm như thế này. Có một người thương buôn nọ rất giàu có, nhưng vợ chết sớm và để lại cho ông một đứa con trai. Vì bận rộn việc mua bán ở phương xa, nên ông đành phải nhờ những người làm trong nhà chăm sóc con mình. Một hôm bọn cướp ập tới đốt phá làng, làm nhiều người mất mạng trong trận hỏa hoạn ấy, trong đó có đứa con trai của ông. Sau khi hỏa táng, ông lại lấy chút xương tro của đứa con bỏ vào trong túi gấm, đi đâu cũng mang theo bên người, đêm nào cũng lấy ra kể lể than khóc. Bỗng đêm kia, bên ngoài có tiếng đứa bé xưng là con của ông. Nhưng ông nghĩ đó là ma, hay bọn con nít trong làng đến chọc phá, nên kiên quyết không mở cửa. Thật ra đứa con ông chỉ bị bọn cướp bắt về rừng, còn đứa bé bị cháy đen mà ông đã thương khóc là một đứa bé khác trong làng. Nhưng mãi mãi ông cũng không bao giờ biết được sự thật, khi sự nghi ngờ trong ông đã đóng bít cửa trái tim và đẩy đứa con của mình ra đi trong tuyệt vọng.
Cuộc sống luôn có những câu chuyện từa tựa như thế. Có khi chân lý đã đến gõ cửa rồi mà ta cũng không chịu mở cửa. Bởi ta vẫn tin chắc những nhận định của mình là hoàn toàn đúng. Đó là thái độ cố chấp, bám chặt vào những kiến thức và kinh nghiệm tích lũy cũ kỹ để nhìn vào thực tại mới mẻ.
Bóng tối nghi ngờ
Khi không hiểu được sự thật thì ta dễ phát sinh thái độ nghi ngờ như một loại phản ứng bảo vệ cái tôi ích kỷ của mình. Bởi hầu hết những nghi ngờ của ta đều cho rằng người kia có thể là kẻ xấu, chứ ít khi nào ta nghi ngờ ngược lại. Trong khi bản chất của sự nghi ngờ chỉ là thái độ thắc mắc, suy đoán, hay thử đặt ra những giả thuyết khác có thể xảy ra; nên đó cũng là cơ hội tốt để ta bắt tay vào công trình khám phá thêm sự thật về đối tượng ấy. Nhưng thói quen “cổ điển” của chúng ta là khi nghi ngờ điều gì thì hầu như tin chắc đó là sự thật, không muốn tìm hiểu hay khám phá thêm nữa. Thậm chí, khi được cung cấp những thông tin có cơ sở chứng minh rõ ràng để giúp ta hiểu đúng đắn hơn về đối tượng ấy, thì ta cũng không dễ dàng mở lòng ra tiếp nhận. Ta luôn nghĩ: “Dò sông dò biển dễ dò. Nào ai lấy thước mà đo lòng người”. Ta biến lời nhắc nhở nên cẩn thận khi đặt niềm tin thành câu thần chú bất di bất dịch để che đậy sự sợ hãi, yếu đuối và thiếu trách nhiệm của mình. Thế nên có khi sự thật hiện bày ra đó, nhưng ta lại chìm đắm trong cảm xúc khó chịu và vọng tưởng miên man do chính mình tạo ra.
Càng sống trong điều kiện tiện nghi thì nội lực của ta càng yếu kém. Khả năng quan sát tinh tường để quyết đoán đúng sai hay thật giả của ta không còn nhạy bén như xưa nữa. Ta đã đặt đời sống mình ở bên ngoài quá nhiều, hy vọng điều kiện hạnh phúc từ những đối tượng khác quá lớn, nên lúc nào ta cũng lo sợ nghịch duyên nghịch cảnh sẽ ập tới. Nếu ta từng bị lừa dối, từng lăn xả trong chốn thương trường, hay hoạt động chính trị, thì trong ta rất dễ hình thành thói quen cảnh giác với tất cả mọi đối tượng, dù với người thân yêu. Ngay khi người kia không có một tín hiệu nào khả nghi cả, họ rất tốt và dễ thương, ta biết rõ điều ấy nhưng không hiểu tại sao ta vẫn không cưỡng lại nổi cố tật nghi ngờ của mình. Ta nghĩ thà nghi lầm còn hơn là tin lỡ. Nhưng thật sự đó là một sai sót rất lớn của cơ chế tâm lý. Nếu không chữa trị thì sớm muộn gì nó cũng chuyển sang mức độ nặng hơn như là phán xét hay vu khống. Trong khi một người có nội lực vững vàng thì không bao giờ nghi ngờ người khác làm điều xấu với mình, vì họ đủ sức ứng phó một cách bình thản trước mọi biến động.
Và lỡ như những nghi ngờ của ta hoàn toàn đúng với sự thật thì sao? Hình như ta đang cố gắng phanh phui những điểm yếu hay những vụng về lầm lỡ của người kia để ta tránh xa hoặc cổ vũ người khác tẩy chay họ, chứ không phải để hiểu và thương họ hơn. Phần lớn, những nghi ngờ của ta đều nhắm vào mục đích thỏa mãn bản ngã, dù có khi ta nhân danh tập thể hay cộng đồng nào đó. Vậy có khi nào nhân danh đạo đức, hay tình nhân ái mà ta chú ý đến những cái hay cái đẹp để ca ngợi, còn những biểu hiện khả nghi kia ta vẫn im lặng quan sát và tìm cách giúp đỡ không? Tại sao ta không giữ thái độ tôn trọng người ấy dù ta đang có nghi ngờ về họ? Tại sao ta không tự hỏi do người ấy rất đáng để ta nghi ngờ hay tại ta mắc bệnh nghi ngờ quá nặng? Tại sao ta không dám đứng ra xin lỗi khi phát hiện ra mình đã nghi oan? Cho nên nghi ngờ thường chỉ làm cho ta yếu đuối và hèn nhát hơn mà thôi.
Thật ra, nghi ngờ chưa hẳn là một tâm hành xấu. Trong truyền thống thiền tập, các thiền sinh phải tự biết đặt nghi vấn về chính phiền não của mình hay mọi hiện tượng xảy ra ngay trước mắt mà không được tin tưởng tuyệt đối vào kinh nghiệm thành công của những bậc thầy đi trước. “Đại nghi đại ngộ”, nghi ngờ càng lớn thì giác ngộ càng lớn. Vì càng nghi ngờ thì sức khám phá càng mạnh mẽ, càng bỏ lại sau lưng những cái thấy đã đóng khung. Bí lắm thiền sinh mới nhờ tới trợ lực của thiền sư bằng những vấn nạn đã được chắt lọc rất kỹ.
Cho nên, một thiền sinh luôn có trách nhiệm với nghi ngờ của mình, khi đã đặt ra là phải xông pha đi tìm câu trả lời đúng đắn, chứ không phải quăng ra bỏ đó rồi năm mười năm sau cũng vẫn còn y nguyên. Cái nghi vấn của thiền sinh luôn nằm trong sự thao thức nhưng đầy tự do, hoàn toàn khác biệt với căn bệnh nghi ngờ để bảo vệ cái tôi yếu đuối, sợ hãi, vô trách nhiệm của những kẻ có sở thích tìm lỗi lầm người khác.
Thắp sáng ngọn đèn thiền
Giữ tâm mãi linh thiêng
Nhìn đời bằng chánh kiến
Thấu suốt cõi lòng đêm.
Minh Niệm
Trích sách “Hiểu về trái tim”
Theo Firstnew