Phẫu thuật robot dành cho ung thư đầu và cổ
Ngày 24 tháng 10 vừa qua, bệnh viện Mount Elizabeth – Singapore đã có buổi hội thảo chuyên khoa thường niên. Rất nhiều kỹ thuật mới trong y khoa được giới thiệu và chia sẻ, một trong số đó là kỹ thuật phẫu thuật ung thư vùng Đầu – Cổ bằng Robot. Bác sỹ Tay Hin Ngan, chuyên gia tư vấn và phẫu thuật vùng Đầu – Cổ đã có bài chia sẻ về kỹ thuật mới này từ những ca bệnh do ông thực hiện.
Ung thư Đầu và Cổ
Ung thư đầu và cổ bao gồm ung thư vùng miệng, mũi, xoang, tuyến nước bọt, họng, và hạch bạch huyết ở cổ.
Phẫu thuật thường là lựa chọn đầu tiên trong điều trị ung thư đầu và cổ. Một vài bệnh nhân có thể chỉ cần điều trị bằng phẫu thuật; một số khác có thể cần điều trị kết hợp giữa phẫu thuật ung thư đầu cổ với xạ trị liệu và/hoặc hóa trị.
Tùy thuộc vào vị trí của khối u, phương pháp phẫu thuật ung thư truyền thống có thể dẫn tới biến dạng vùng mặt, đặc biệt nếu ung thư liên quan tới mũi, môi, mí mắt và hai má. Các khối u nhỏ thường có thể được đóng bằng việc khâu các bên bờ cắt lại với nhau. Trường hợp các thiếu hụt rộng hơn hoặc sâu hơn có thể cần phải chuyển vạt cơ, xương hoặc da để đóng vết thương phức tạp như đoạn ở miệng và mũi, đặc biệt khi phẫu thuật ung thư đã loại bỏ phần xương từ má hoặc hàm.
Phẫu thuật Robot qua đường miệng
Phẫu thuật robot qua đường miệng (Transoral Robotic Surgery – TORS) là hình thức tiên tiến trong các phẫu thuật với ung thư vùng đầu và cổ. Phương thức này được áp dụng ở hầu hết các cơ quan vùng đầu và cổ, nổi trội là miệng hầu, hạ họng và thanh quản, ngoài ra cả khoang mũi họng và cạnh họng; và cũng có thể dùng trong trường hợp cắt bỏ một số loại ung thư như ung thư biểu mô tế bào vảy, ung thư biểu mô không biệt hóa, ung thư biểu mô tuyến nước bọt, hay các u lành tính như u tuyến đa dạng, v.v.
Phẫu thuật robot qua đường miệng, như tên gọi của nó, được thực hiện qua đường miệng tự nhiên. Thiết bị nội soi của robot phẫu thuật Da Vinci cho hình ảnh góc, ba chiều và phóng đại của trường phẫu thuật, với độ sáng cực cao, cao hơn cả nội soi truyền thống và phương thức mổ mở. Các dụng cụ khởi động từ xa có khẩu độ chuyển động phù hợp để có thể tiến hành tại vùng phẫu thuật, cho phép các thao tác phẫu thuật tinh vi hơn so với phương thức nội soi, cắt bỏ các mô với thao tác chuẩn xác. Các ưu điểm này đã giúp cho việc phẫu thuật ở các vùng mà trước đây chỉ có thể tiếp cận được bằng cách mở rộng hầu, mở xương hàm dưới dùng thủ thuật xâm lấn tối thiểu.
Các nghiên cứu trước nay vẫn nói tới các phương pháp phẫu thuật nội soi và phẫu thuật robot không để lại sẹo dành cho tuyến giáp. Các phương pháp này được coi là phương thức tiếp cận từ xa mà vết sẹo thường nằm khuất, hoặc ở nách hoặc ở vùng quầng (che khuất bởi quần áo) hoặc ở gần mái tóc (che khuất bởi tóc). Phương pháp được áp dụng phổ biến rộng rãi trên toàn thế giới là qua đường nách và sau tai. Các phương pháp này thường khá an toàn và việc lựa chọn phương pháp nào còn tùy thuộc vào hình thái học của tuyến giáp và nhân giáp, cơ địa của của bệnh nhân và còn có thể tùy vào lựa chọn riêng của bệnh nhân.
Bệnh viện Mount Elizabeth
Phẫu thuật robot là một phương thức xâm lấn tối thiểu dành cho bệnh nhân bị ung thư đầu và cổ, cũng như các khối u lành tính. TORS cải thiện tỉ lệ chẩn đoán các ca ung thư nguyên phát không rõ nguyên nhân ở vùng đầu và cổ. Điều này cho phép bệnh nhân tránh bị phẫu thuật biến dạng và hóa xạ trị liều cao gây mệt mỏi, qua đó thời gian hồi phục ngắn hơn, chức năng nuốt và giọng nói được cải thiện hơn, và giúp giảm tổng chi phí. Tại các bệnh viện Mount Elizabeth, chúng tôi có đội ngũ các bác sĩ phẫu thuật đầu cổ được công nhận bới Intuitive Surgical’s da Vinci Surgeon Locator, là những người có khả năng đảm bảo thực hiện công nghệ tiên tiến này và nâng cao kết quả cũng như chất lượng sống của bệnh nhân phải điều trị ung thư vùng đầu cổ.
Bệnh nhân sẽ được những lợi ích gì?
Với trường hợp ung thư nguyên phát không rõ nguyên nhân, TORS mang lại khả năng chưa từng có nhằm xác định khối u nguyên phát bằng việc cho phép cắt bỏ hoàn toàn amidan lưỡi. Ở hầu hết các bệnh nhân điều này nghĩa là cắt bỏ hoàn toàn khối u, cho phép bệnh nhân chỉ cần điều trị xạ trị hoặc hóa xạ trị bổ sung liều thấp tới vùng nguyên phát đã được xác định và vùng cổ. Điều này sẽ không ảnh hưởng đến phần còn lại của trục giữa và liều xạ trị thấp hơn sẽ giúp giảm mệt mỏi đáng kể.
Các khối u ở miệng họng, thanh quản và hạ họng trước đây thường đòi hỏi mở xương hàm dưới hoặc mở rộng hầu mà dễ gây ảnh hưởng tới cơ chế nhai và nuốt. TORS bảo tồn cơ chế nuốt bằng việc chỉ cắt bỏ vùng bị ảnh hưởng từ khối u ra phía ngoài. Quá trình lành vết thương cũng là mối quan tâm tiếp theo: với việc không cần dùng vạt, dẫn tới tác động tối thiểu lên khả năng nuốt. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc nuốt tốt hơn cùng với phụ thuộc ít hơn vào ống mở thông dạ dày nếu so sánh với việc hóa xạ trị khi điều trị ban đầu. Thường thì bệnh nhân có thể ăn được và ra viện trong vòng 3 – 5 ngày sau khi phẫu thuật. Xét về kết quả điều trị ung thư, thậm chí ở cả ung thư tiến triển, thì tương đương với hóa xạ trị, bao gồm phẫu thuật bảo tồn.
Tiếp cận qua đường mũi hầu trước nay vẫn cho hiệu quả không cao, đòi hỏi thủ thuật phức tạp và rộng để tới được vùng phẫu thuật sâu và nhỏ, ví dụ như phương thức cắt bỏ xương hàm giữa, v.v. Phẫu thuật nội soi cải thiện hình ảnh và giảm thiểu rủi ro khi tiếp cận, nhưng phẫu thuật robot mang lại độ chính xác cao hơn nhiều với các dụng cụ robot khéo léo được thực hiện qua vòm miệng hay qua mũi.
Để cắt bỏ các khối u cạnh họng thì trước đây đòi hỏi phương thức tiếp cận qua tuyến mang tai hoặc đôi lúc là qua mở xương hàm dưới. Với TORS, rất nhiều loại u này có thể được cắt bỏ một cách an toàn qua đường miệng với kết quả tốt nếu so sánh với phương thức truyền thống. Phương pháp này bảo tổn chức năng nhai cũng như giảm nguy cơ ảnh hưởng tới các dây thần kinh mặt.
Robot Da Vinci cũng có thể được sử dụng trong phương thức chũm (sau tai) hoặc ở vùng cổ trong trường hợp di căn hạch cổ. Phương pháp này an toàn và không xâm phạm các nguyên tắc trong điều trị ung thư. Các hạch được vét cũng cho kết quả như dùng vết rạch truyền thống. Vị trí rạch thường tránh được các mạch máu lớn nhờ đó làm giảm nguy cơ ảnh hưởng tới động mạch cảnh và vỡ tĩnh mạch cổ thậm chí nếu vết mổ nứt ra. Vết rạch sau tai cũng không đi qua trục cử động của cổ, vì thế cải thiện tính chuyển động hơn so với vết rạch truyền thống đi qua cổ, và hơn nữa là giảm các tác động liên quan tới thẩm mỹ.