Chiến sự Nga - Ukraine
  1. Dòng sự kiện:
  2. Ông Trump và ông Zelensky tranh cãi tại Nhà Trắng
  3. Chiến sự Nga - Ukraine
  4. Chính quyền Trump 2.0

NATO sẽ ra sao nếu thiếu Mỹ?

Bảo Châm

(Dân trí) - Châu Âu đang đối mặt với một thực tế đầy thách thức là vai trò trụ cột của Mỹ trong NATO, liên minh đã bảo đảm an ninh cho châu lục này suốt gần 80 năm, không còn chắc chắn.

NATO sẽ ra sao nếu thiếu Mỹ? - 1

Lực lượng NATO tập trận bắn đạn thật ở Latvia tháng 11/2022 (Ảnh: Reuters).

Thái độ không thiện cảm công khai đối với Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky, sự thân thiện với Tổng thống Nga Vladimir Putin cũng như những bình luận gần đây của Tổng thống Mỹ Donald Trump đặt nghi vấn về việc liệu ông có bảo vệ các đồng minh NATO "nếu họ không trả tiền" hay không? 

Tất cả buộc các nhà lãnh đạo châu Âu phải bắt đầu suy nghĩ về điều trước đây dường như không nghĩ tới: Liệu Mỹ có còn là một đối tác an ninh đáng tin cậy vào thời điểm châu lục này đang bị rung chuyển bởi cuộc chiến lớn nhất kể từ những năm 1940?

Tuy nhiên, NATO sẽ không bất lực nếu thiếu Mỹ. Với hơn 1 triệu quân và kho vũ khí hiện đại của 31 quốc gia thành viên còn lại, liên minh này vẫn sở hữu sức mạnh đáng kể. Theo các chuyên gia, châu Âu có đủ tiềm lực tài chính và công nghệ để tự bảo vệ mình mà không cần đến Mỹ.

Theo số liệu của NATO, Mỹ và Đức hiện là 2 nước đóng góp nhiều nhất vào ngân sách quân sự, ngân sách dân sự và chương trình đầu tư an ninh của liên minh, với tỷ lệ gần 16% mỗi nước, tiếp theo là Anh (11%) và Pháp (10%). Các nhà phân tích nhận định châu Âu hoàn toàn có thể bù đắp sự thiếu hụt nếu Washington rút đi.

"Nếu các nước châu Âu đoàn kết và đầu tư đúng hướng, họ có thể tạo ra một lực lượng răn đe mạnh mẽ cả về quân sự thông thường và hạt nhân trước Nga", ông Ben Schreer, Giám đốc điều hành khu vực châu Âu của Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (IISS), nhận định trong một cuộc thảo luận trực tuyến với hãng tin CNN và các phóng viên khác hồi cuối tháng 2.

"Châu Âu hoàn toàn có khả năng huy động nguồn lực cần thiết để tự phòng vệ, vấn đề chỉ là họ có sẵn sàng làm điều đó hay không", ông Ben Schreer nhấn mạnh.

Và đây chính là câu hỏi then chốt. Suốt hơn 75 năm qua, trải qua 14 đời Tổng thống Mỹ, bao gồm cả nhiệm kỳ đầu của ông Donald Trump, Mỹ đã đóng vai trò là sợi dây liên kết giúp NATO duy trì sự gắn kết.

Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, quân đội Mỹ đồn trú tại châu Âu nhằm ngăn chặn khối Hiệp ước Warsaw của Liên Xô và đã chứng kiến sự sụp đổ của liên minh này khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989.

Trong các chiến dịch quân sự của NATO tại Balkans những năm 1990, Mỹ là lực lượng chủ chốt với lục quân và không quân hùng mạnh. Cho đến khi ông Trump nhậm chức lần thứ hai vào ngày 20/1, Washington vẫn là quốc gia dẫn đầu trong việc viện trợ cho Ukraine.

Theo các nhà phân tích, nhiều thập kỷ đoàn kết xuyên Đại Tây Dương có thể đã kết thúc trong những ngày gần đây.

Vụ căng thẳng tại Phòng Bầu dục giữa ông Trump và ông Zelensky - sau đó dẫn đến việc Mỹ ngừng viện trợ cho Kiev - "không chỉ là một rạn nứt với Ukraine mà còn là sự đổ vỡ sâu sắc hơn với chiến lược "thế giới tự do" của Mỹ, từ thời Tổng thống Truman đến thời Tổng thống Reagan", ông Dan Fried, chuyên gia cấp cao tại Hội đồng Đại Tây Dương và cựu Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ phụ trách châu Âu, nhận định trên trang web của tổ chức này.

Ông John Lough, cựu quan chức NATO và hiện là nghiên cứu viên tại Viện nghiên cứu Chatham House (London), cho rằng sự chia rẽ trong NATO đang trở nên sâu sắc hơn bao giờ hết.

"Có cảm giác như Mỹ đang coi châu Âu là đối thủ cạnh tranh hơn là một đồng minh", ông Lough chia sẻ với CNN, đồng thời nhấn mạnh rằng vì lý do này, cam kết của Washington trong việc bảo vệ các đồng minh NATO đang trở nên không chắc chắn.

Đây là một rạn nứt mà ông Lough cho rằng không thể hàn gắn. "Một khi cam kết bắt đầu lung lay, thực chất nó đã mất đi hoàn toàn", ông nói.

Thậm chí, theo ông Lough, trong giới chính trị châu Âu, một số người đã bắt đầu đặt câu hỏi liệu có nên xem Washington là "một kiểu kẻ thù" hay không. Tuy nhiên, một số chuyên gia cho rằng NATO không có Mỹ không phải là kịch bản tồi tệ.

"Khi các đồng minh của Mỹ nhận ra rằng họ không thể tiếp tục tin tưởng vào năng lực phòng thủ của Washington trong những thời điểm quyết định, họ sẽ nhanh chóng bù đắp khoảng trống và tập trung vào việc củng cố năng lực của chính mình", chuyên gia Moritz Graefrath tại Viện Nghiên cứu Toàn cầu William & Mary, viết trên War on the Rocks vào năm ngoái.

"Theo cách này - dù có vẻ đi ngược lại trực giác - việc Mỹ rút khỏi NATO có thể khiến châu Âu mạnh hơn, chứ không yếu đi", ông Graefrath lập luận.

Thủ tướng Ba Lan Donald Tusk, lãnh đạo một quốc gia thành viên NATO, tin rằng quá trình này đã bắt đầu.

"Xét trên mọi phương diện, châu Âu hoàn toàn có khả năng giành chiến thắng trong bất kỳ cuộc đối đầu quân sự, tài chính hay kinh tế nào với Nga - chúng ta đơn giản là mạnh hơn", ông Tusk tuyên bố trước thềm hội nghị thượng đỉnh Liên minh châu Âu tuần này. "Chúng ta chỉ cần bắt đầu tin vào điều đó. Và có vẻ như hôm nay, điều đó đang trở thành hiện thực", ông nói thêm.

NATO sẽ ra sao nếu thiếu Mỹ? - 2

Nếu xảy ra chiến tranh giữa Nga và NATO, sẽ là một cuộc chiến tổng lực (Ảnh: Atlantic Council).

Châu Âu có gì trong tay?

Về lý thuyết, một lực lượng quân sự thống nhất của châu Âu có thể trở thành một thế lực đáng gờm.

Theo báo cáo Military Balance 2025 của IISS, Thổ Nhĩ Kỳ sở hữu lực lượng vũ trang lớn nhất trong NATO sau Mỹ, với 355.200 quân nhân đang tại ngũ. Tiếp theo là Pháp (202.200), Đức (179.850), Ba Lan (164.100), Ý (161.850), Anh (141.100), Hy Lạp (132.000) và Tây Ban Nha (122.200).

Xét riêng lực lượng lục quân, thành phần nòng cốt của các đơn vị tác chiến tiền tuyến, Thổ Nhĩ Kỳ cũng dẫn đầu với 260.200 quân, tiếp theo là Pháp (113.800), Ý (94.000), Hy Lạp (93.000), Ba Lan (90.600), Anh (78.800), Tây Ban Nha (70.200) và Đức (60.650), theo IISS.

Trong khi đó, theo báo cáo tháng 7/2024 của Cơ quan Nghiên cứu Quốc hội Mỹ (CRS), tính đến tháng 6/2024, có khoảng 80.000 binh sĩ Mỹ được triển khai hoặc đồn trú tại các căn cứ ở châu Âu. Phần lớn số này đóng tại Đức (35.000), Ý (12.000) và Anh (10.000).

Bên cạnh đó, một số quốc gia NATO lớn cũng sở hữu các loại vũ khí tương đương hoặc vượt trội so với Nga.

Chẳng hạn, về tàu sân bay, Nga chỉ có 1 tàu sân bay cũ, trong khi riêng Anh đã có 2 tàu sân bay hiện đại có khả năng triển khai tiêm kích tàng hình F-35B. Ngoài ra, Pháp, Ý và Tây Ban Nha cũng sở hữu tàu sân bay hoặc tàu đổ bộ có khả năng phóng máy bay chiến đấu, theo Military Balance.

Bên cạnh Mỹ, Pháp và Anh cũng duy trì lực lượng hạt nhân, đồng thời cả hai quốc gia đều sở hữu tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo.

Ngoài Mỹ, các đồng minh NATO còn có khoảng 2.000 máy bay chiến đấu và cường kích, trong đó bao gồm hàng chục tiêm kích tàng hình F-35 mới.

Lực lượng lục quân bao gồm nhiều loại xe tăng hiện đại, bao gồm Leopard của Đức và Challenger của Anh, trong đó, một số chiếc được viện trợ đang phục vụ cho quân đội Ukraine.

Không những vậy, các quốc gia châu Âu trong NATO còn có khả năng triển khai các loại tên lửa hành trình mạnh mẽ, như SCALP/Storm Shadow do Pháp và Anh hợp tác phát triển, loại vũ khí đã chứng tỏ hiệu quả trên chiến trường Ukraine.

Báo cáo Military Balance 2025 cho thấy châu Âu đang chủ động nâng cao năng lực quân sự mà không cần phụ thuộc vào Mỹ. Năm 2024, 6 quốc gia châu Âu đã hợp tác phát triển tên lửa hành trình phóng từ mặt đất, đồng thời đẩy mạnh sản xuất vũ khí và mở rộng chuỗi cung ứng, tìm đến các đối tác mới như Brazil, Israel và Hàn Quốc để đa dạng hóa nguồn trang bị quân sự.

Các chuyên gia nhận định rằng ngay cả khi rút hoàn toàn khỏi châu Âu, Mỹ vẫn để lại hạ tầng quân sự quan trọng.

Theo Cơ quan Nghiên cứu Quốc hội Mỹ (CRS), hiện có 31 căn cứ quân sự cố định của Mỹ tại châu Âu, bao gồm các cơ sở hải quân, không quân, lục quân và trung tâm chỉ huy điều khiển. Nếu Mỹ rút quân, những cơ sở này sẽ vẫn nằm dưới quyền kiểm soát của các quốc gia sở tại.

Bên cạnh đó, chuyên gia Moritz Graefrath nhấn mạnh rằng Mỹ sẽ không mất đi hoàn toàn lợi thế từ hệ thống hạ tầng này, ngay cả khi quyết định rút quân. "Hệ thống quân sự Mỹ vẫn sẽ duy trì trong thời gian dài, đảm bảo rằng Washington có thể quay trở lại châu Âu nếu diễn biến tình hình không như dự đoán", ông viết.

Điều gì sẽ xảy ra tiếp theo?

Nhiều người hy vọng rằng những tuyên bố về việc Mỹ rút khỏi NATO chỉ là chiến thuật gây sức ép của ông Donald Trump, nhằm buộc các đồng minh phải tăng chi tiêu quốc phòng.

Họ cho rằng một liên minh quan trọng khác của Mỹ từng rơi vào tình huống tương tự trong nhiệm kỳ đầu của ông Trump. Khi đó, ông được cho là đã yêu cầu Lầu Năm Góc xem xét phương án rút bớt quân Mỹ khỏi Hàn Quốc, nơi binh sĩ Mỹ đóng vai trò răn đe trước mối đe dọa hạt nhân từ Triều Tiên.

Động thái này diễn ra khi ông Trump chuẩn bị gặp nhà lãnh đạo Kim Jong-un, với hy vọng thuyết phục Triều Tiên từ bỏ chương trình hạt nhân. 

Một nguồn tin thân cận với Nhà Trắng khi đó nói với hãng tin CNN rằng, khả năng Mỹ rút quân là điều có thể xảy ra, nhưng "sẽ không diễn ra cho đến khi kho vũ khí hạt nhân của Triều Tiên bị loại bỏ hoàn toàn và có thể kiểm chứng".

Tuy nhiên, ông Kim Jong-un đã bác bỏ mọi đề xuất từ bỏ chương trình hạt nhân.

"Cuộc gặp giữa ông Trump và ông Kim được quảng bá như một thành công lớn, dù thực tế không phải vậy", chuyên gia Ben Schreer nhận định.

Sau hội nghị, Mỹ vẫn duy trì hiện diện quân sự ở Hàn Quốc như bình thường. Các cuộc tập trận chung với Seoul được khôi phục, tàu chiến Mỹ tiếp tục cập cảng Hàn Quốc và máy bay ném bom của không quân Mỹ vẫn tuần tra trong khu vực.

Các nhà phân tích cho rằng kịch bản tương tự có thể xảy ra ở châu Âu nếu ông Trump không đạt được điều ông mong muốn từ ông Putin. NATO vẫn có thể tiếp tục tồn tại, và những lời đe dọa rút quân của Mỹ chỉ là một trở ngại nhỏ trên con đường hợp tác lâu dài.

Theo CNN
Dòng sự kiện: Chiến sự Nga - Ukraine