Lật tẩy chiến lược dài hạn của Trung Quốc ở Biển Đông
Binh pháp Tôn Tử từng nêu, "Không cần đánh mà làm kẻ địch khuất phục mới gọi là sáng suốt nhất trong sự sáng suốt" hay "Thượng sách bao gồm cả việc triệt hạ sự kháng cự của kẻ địch mà không cần đánh".
Nhiều tác giả viết về tuyên bố chủ quyền của TQ đối với quần đảo Hoàng Sa đã ghi cuộc viễn chinh chính thức đầu tiên của TQ tới quần đảo này là vào năm 1902. Tuy nhiên, không ai trong số họ có thể trưng ra bất kỳ hồ sơ nào về việc cuộc viễn chinh đó đã diễn ra. Trong thực tế, các tài liệu của TQ cho thấy, cuộc viễn chinh như vậy chưa bao giờ xảy ra.
Trong cuốn sách "Contest for the South China Sea" (tạm dịch: "Tranh chấp Biển Đông") nổi tiếng của mình, giáo sư Marwyn Samuels đã quở trách các học giả phương Tây từng viết rằng, cuộc viễn chinh đầu tiên của TQ tới quần đảo Hoàng Sa diễn ra vào năm 1909. Thay vào đó, ông quả quyết, cuộc viễn chinh này diễn ra vào năm 1902.
Theo ông Samuels, chuyến đi thị sát đầu tiên như vậy do Đô đốc Lý Chuẩn chỉ huy và là nỗ lực đầu tiên của TQ nhằm thực thi công ước 1887 giữa Pháp và TQ, khẳng định các quyền của nước này đối với quần đảo Hoàng Sa.
Kể từ khi cuốn sách gây ảnh hưởng mạnh mẽ của Samuels được xuất bản, nó dường như đã trở thành thông lệ khi nhắc tới sự kiện "không thể tranh cãi" này trong các cuốn sách và bài báo liên quan đến tranh chấp ở Biển Đông. Tuy nhiên, không có bất kỳ tác giả nào về sau có thể chứng minh được khẳng định ấy.
Các chiến dịch khảo cổ những năm 1970 và tuyên bố chính thức
Từ năm 1974 tới 1979, quân đội giải phóng nhân dân Trung Hoa (PLA) và các nhà khảo cổ TQ đã tiến hành nhiều chuyến đi khảo sát ở quần đảo Hoàng Sa. Trong số các hiện vật được phát hiện trong những chuyến đi này có nhiều đồ tạo tác bằng sứ thuộc nhiều thời kỳ khác nhau, các di tích đền thờ và nhiều cột mốc chủ quyền. Các cột mốc đề năm 1902, 1912 và 1921.
Năm 1973, một tạp chí ở Hong Kong có tên The Seventies cho đăng tải bức ảnh chụp một phiến đá đề năm 1902, được tìm thấy trên một hòn đảo nhỏ thuộc quần đảo Hoàng Sa. Báo The Hong Kong Standard đưa tin về các khám phá vào ngày 6/3/1979, trong một bài báo nhan đề "Phiến đá chứng minh các quyền cổ xưa". Cả hai bài báo này, vốn đều cho đăng hình một phiến đá năm 1902, đã trở thành các nguồn cung cấp thông tin duy nhất về cuộc viễn chinh "không thể bàn cãi" vào năm 1902, cho các học giả như Hungdah Chiu và Choon-ho Park hay Marwyn Samuels vào năm 1982.
Trước năm 1979, không có học giả TQ hoặc phương Tây nào từng đề cập tới sự tồn tại của cuộc viễn chinh năm 1902. Chuyến đi chính thức duy nhất tới quần đảo Hoàng Sa được ghi chép vào biên niên sử nhà Thanh là cuộc thị sát do Đô đốc Lý Chuẩn đứng đầu, vào năm 1909.
Chuyến thám hiểm "ma" tới quần đảo Hoàng Sa
Có một lí do đơn giản khiến không học giả nào từng có thể tìm thấy bất kỳ tài liệu lịch sử nào về cuộc viễn chinh năm 1902: nó chưa bao giờ diễn ra. Thay vào đó, bằng chứng về cuộc viễn chinh năm 1902 đã được tạo dựng rất lâu sau đó, vào năm 1937.
Tháng 6/1937, tư lệnh vùng quân sự số 9 của TQ, Hoàng Cường, đã được cử đến quần đảo Hoàng Sa với 2 sứ mệnh: Trước hết là kiểm tra các báo cáo rằng quân Nhật đang xâm chiếm quần đảo và hai là tái khẳng định chủ quyền của TQ đối với quần đảo này. Theo các ghi chép về sứ mệnh của ông Cường đề ngày 31/7/1937, ông đã rời Quảng Đông vào ngày 19/6 và tới quần đảo Hoàng Sa vào ngày 23/6. Cùng ngày, ông thăm 4 hòn đảo thuộc nhóm đảo An Vĩnh (đảo Phú Lâm, đảo Đá, đảo Linh Châu và đảo Bắc) của quần đảo Hoàng Sa. Ngày tiếp theo, 24/6, ông rời tới đảo Hải Nam.
Sứ mệnh ngắn ngủi và tối mật này đã được các nhà sử học TQ Hàn Chấn Hoa, Lâm Kim Chi, Ngô Phương Bân kể lại chi tiết trong cuốn "Tài liệu biên soạn các tư liệu lịch sử về quần đảo Hoàng Sa của chúng ta ở Biển Đông", xuất bản năm 1988. Tuy nhiên, nếu họ đã công bố báo cáo ngày 31/7/1937, họ đã quên, một cách vô tình hoặc hữu ý, công bố phụ lục của báo cáo này. May mắn là, phần phụ lục tối mật của báo cáo này đã được Ủy ban các địa danh của tỉnh Quảng Đông cho công bố năm 1987, trong một cuốn sách nhan đề "Tài liệu biên soạn về tên tham khảo của tất cả các hòn đảo của chúng ta ở Nam Hải". Phụ lục này nêu chi tiết các hành động của ông Huang Qiang ở Hoàng Sa.
Trong phần phụ lục này, ông Cường giải thích rằng, như kế hoạch, thuyền của ông chở theo 30 cột mốc chủ quyền. Trong số chúng có 4 cột mốc đề thời nhà Thanh, số còn lại đề năm 1912 (thời điểm đánh dấu sự ra đời của Trung Hoa Dân quốc) và năm 1921. Tuy nhiên, ông Cường không mang theo cột mốc nào đề năm 1937, vì sứ mệnh này là tuyệt mật. Đoàn công tác của ông đã phát hiện 4 cột mốc từ thời nhà Thanh, đề năm 1902 ở thành phố Quảng Đông. Theo phụ lục báo cáo, đoàn công tác đã chôn những cột mốc này, đánh dấu tọa độ địa lý của chúng trên 4 hòn đảo thuộc cụm An Vĩnh.
Trên đảo Bắc, họ đã chôn 2 cột mốc đề năm 1902 và 4 cột mốc năm 1912. Trên đảo Linh Châu, đoàn đã chôn 1 cột mốc đề năm 1902, một cột mốc đề năm 1912 và một năm 1921. Trên đảo Phú Lâm, họ đã chôn 2 cột mốc đề năm 1921. Cuối cùng, trên đảo Đá, họ chôn một cột mốc đề năm 1912.
Nói tóm lại, chuyến đi năm 1937 đã cài cắm tổng cộng 12 cột mốc trên các hòn đảo, kể cả 3 cột mốc đề năm 1902. Chúng đã bị lãng quên trong giai đoạn từ năm 1937 tới năm 1979, nhưng sau đó "được phát hiện" trong các cuộc nghiên cứu của PLA và các chuyên gia khảo cổ học. Đây gần như chắc chắn là lời giải thích cho một câu bí ẩn trong cuốn sách của Samuels, khi ông viết rằng, các cột mốc năm 1902 được cho là đã bị mất tích trong chiến tranh thế giới lần thứ 2.
Bí ẩn các cột mốc chủ quyền ở quần đảo Trường Sa
Hầu hết các cuốn sách, bài báo và tuyên bố chính thức đề cập tới việc TQ tái giành lại quần đảo Trường Sa từ tay Nhật năm 1946 và cài cắm các cột mốc chủ quyền lên nhiều hòn đảo. Câu chuyện này được tác giả Đài Loan Trương Chấn Quốc đề cập tới lần đầu tiên trong cuốn sách "Chuyến đi tới Nam Sa" của ông, viết năm 1957 nhưng mãi tới năm 1975 mới xuất bản.
Trương, người đứng đầu cuộc thám hiểm của Đài Loan tới quần đảo Trường Sa năm 1956 (đối đầu với doanh nhân Thomas Cloma của Philippines), đã viết rằng, trong cuộc viễn chinh năm 1946 dưới sự chỉ huy của Mạch Uẩn Du, lực lượng này đã nắm quyền kiểm soát 3 hòn đảo có tên đảo Taiping (đảo Ba Bình), Nam Wei (đảo Trường Sa) và Xi Yue (đảo Bến Lạc). Trên 3 hòn đảo này, đoàn của Mạch đã cắm các cột mốc chủ quyền đề năm 1946.
Tuy nhiên, khi cuốn sách của ông Trương được xuất bản năm 1975, chỉ huy Mạch vẫn còn sống và đọc nó. Đây quả thực là một cú sốc với ông. Trong thực tế, ông Mạch thừa nhận, mặc dù đoàn của mình đã tới đảo Ba Bình vào tháng 12/1946, phá hủy các cột mốc của Nhật và cắm 2 cột mốc chủ quyền (phía bắc và nam của đảo), nhưng họ chưa bao giờ tới đảo Trường Sa và đảo Bến Lạc.
Trong thực tế, theo các tài liệu chính thức, khi doanh nhân Thomas Cloma của Phillipines tuyên bố quyền sở hữu của ông đối với quần đảo Trường Sa (Freedomland) năm 1956, Đài Bắc cử quân tuần tra 3 lần tới quần đảo này (2 tàu tuần tra từ ngày 2 - 14/6, 3 tàu từ 29/6 - 22/7 và 2 tàu từ 24/9 - 5/10). Trong những cuộc tuần tra này, các binh lính đã làm lễ thượng cờ và dựng các cột mốc chủ quyền trên 3 đảo Ba Bình, Trường Sa và Bến Lạc. Tuy nhiên, cũng lại một trò bịp bợm, các cột mốc này đề năm 1946, nhưng được đưa tới Nam Sa cài cắm 10 năm sau đó, vào năm 1956.
Khảo cổ học và chủ nghĩa ái quốc: Sự lèo lái chính trị của các cột mốc chủ quyền
Liệu các chuyên gia khảo cổ học có thành thật khi phát hiện các cột mốc ở quần đảo Hoàng Sa? hay họ đã bị PLA, những người biết rõ câu chuyện, "đạo diễn"? Chúng ta không thể biết được. Tuy vậy, nếu chúng ta tính đến tình tiết quan trọng về quần đảo Trường Sa, chúng ta có thể thấy một chiến lược có hệ thống và tinh vi hơn nhằm thao túng các tài liệu.
Hai tình tiết quan trọng này cho thấy những hạn chế của việc dựa vào các hiện vật khảo cổ khi cố gắng giải quyết tranh chấp lãnh thổ. Bất kỳ hiện vật nào cũng có thể chân thực (chẳng hạn như từ bảo tàng), nhưng được chôn xuống đất ở một thời điểm sau đó rất lâu. Trong cuộc chiến tâm lý về các quần đảo ở Biển Đông, trò bịp bợm này có thể đã được thực hiện. Các câu chuyện hoang đường đã xuất hiện trong nhiều tác phẩm viết bằng tiếng Anh và tiếp cận độc giả quốc tế. Trong khi đó, có vẻ như chẳng có mấy nhà nghiên cứu biết tiếng Quan thoại và một nhóm chuyên gia TQ đã biết rõ những chuyện hoang đường này.