"Giải mã" những bộ phim Việt lập kỷ lục phòng vé
Hơn 20 năm theo dõi sát sao đời sống điện ảnh Việt Nam, cộng với hai công trình khảo cứu về lịch sử điện ảnh từ 1954 đến nay (tính cả điện ảnh Sài Gòn trước 1975), tôi nhận ra một vòng tròn luẩn quẩn của phim Việt: cứ phát triển được một thời gian lại thoái trào, cứ "chạm đáy" thì lại bật lên. Chính sự luẩn quẩn này khiến điện ảnh Việt Nam luôn ở trong giai đoạn quá độ và hầu như không kế thừa, cũng chẳng mấy học được những bài học thất bại của cái cũ.
Nếu chỉ nhìn ở dòng phim thương mại giải trí, có hai giai đoạn mà tôi thấy khá tương đồng với đời sống điện ảnh hiện nay, đó là giai đoạn cuối của điện ảnh Sài Gòn trước khi lụi tàn (1969-1975) và giai đoạn phim "mì ăn liền" (1990 -1997). Hai giai đoạn này điện ảnh giải trí phát triển nhanh, mạnh và rực rỡ, chinh phục được khán giả nội địa và tạo dựng được những ngôi sao điện ảnh thực sự. Khi những bộ phim của đạo diễn Lê Hoàng Hoa, Lê Mộng Hoàng, Lê Dân thắng trên "sân nhà", báo chí Sài Gòn thời ấy từng giật những cái tít bài rất hồ hởi như: "Phim Việt Nam đè bẹp phim Tàu", "Phim Lê Hoàng Hoa bỏ xa Tinh võ môn của Lý Tiểu Long"… Thế nhưng, những thành công và niềm tự hào của phim nội ấy cũng kéo dài không quá lâu. Phim giải trí phát triển rầm rộ, "trăm hoa đua nở" kéo theo vô số phim nhảm, phim "rác" chất lượng thấp khiến thị trường điện ảnh phục hồi chưa lâu lại thoái trào.
Dòng phim "mì ăn liền" thập niên 90 lặp lại công thức thành công và thoái trào tương tự như giai đoạn trước 1975 dẫn đến cái chết "lâm sàng" của điện ảnh Việt sau đó.
Trong hai thập niên qua, nền điện ảnh giải trí của Việt Nam khởi sắc trở lại với một thế hệ các nhà làm phim mới, được đào tạo bài bản hơn, trong số đó có nhiều đạo diễn Việt kiều và một số đạo diễn trẻ học từ Mỹ trở về. Thế nhưng, nền điện ảnh giải trí của Việt Nam vẫn phát triển một cách tự phát, thiếu một tầm nhìn và chiến lược dài hạn. Một số kỷ lục phòng vé được thiết lập, nhưng số lượng phim thảm họa thất bại hoàn toàn vẫn chiếm đa số.
Quan trọng hơn, khi xem phim Việt, ngay cả những phim thành công nhất, tôi vẫn thấy chúng nhang nhác phim Mỹ, phim Hàn, phim Tàu, phim Thái. Hay nói cách khác, tôi thấy "chất Việt Nam" trong các bộ phim này chưa cao, khiến khán giả khi đến rạp xem phim Việt Nam, hầu hết đều với một tâm thế "mua vui cũng được một vài trống canh". Rất ít phim chạm được vào các vấn đề của đời sống Việt Nam đương đại, khai thác được những chất liệu mang tính bản địa, hoặc nếu có, cũng chỉ mới hời hợt trên bề mặt.
Thế rồi Trấn Thành xuất hiện. Vốn là một ngôi sao giải trí, một diễn viên từng đóng nhiều phim dở trước đó, nhưng từ khi chuyển sang làm phim với tư cách là nhà sản xuất, biên kịch, đạo diễn và diễn viên chính, Trấn Thành gần như lột xác và tạo ra hai "cơn sốt phim Việt" và tạo ra những kỷ lục phòng vé chưa từng có trước đây.
Với tôi, hai kỷ lục phòng vé chưa từng có của Bố già và Nhà bà Nữ - nói một cách ngắn gọn, là nhờ Trấn Thành khai thác được những chất liệu bình dân của đời sống xã hội Việt Nam đương đại, chạm vào được những vết thương kiểu "vô thức tập thể" rồi tìm cách chữa lành và để lại những bài học vừa vặn. Nói cách khác, phim của anh là dòng phim về thị dân và đưa ra được những triết lý bình dân gần gũi. Làm được điều này, tức là Trấn Thành chạm vào được 80% người Việt Nam rồi. Thế nên khán giả cứ thế rồng rắn đến rạp xem phim thôi.
Cả hai phim đều có lối kể chuyện đậm chất tự sự, nói theo kiểu chuyên môn của Tây là "personal narratives"; cho phép người dẫn chuyện được quyền thể hiện cái tôi cá nhân, góc nhìn đậm tính chủ quan.
Bố già đơn giản chỉ là chuyện cha con, là tình phụ tử, Nhà bà Nữ là chuyện mẹ con/tình mẫu tử. Cả hai đều là góc nhìn của hai đứa con trong mối quan hệ bất hòa, xung đột thế hệ với bố, mẹ của chúng. Thầy Thích Nhất Hạnh nói "hiểu rồi mới thương", thì cả hai phim này đều phô ra cái tình thương đầy "toxic" giữa cha mẹ với con cái - tức là tình thương "độc hại" - nhưng đó mới chính là cái vết thương, cái "vô thức tập thể" của người Việt từ đời này sang đời khác. Thế nên không bao giờ hết chuyện để kể. "Hiểu rồi mới thương", 4 cái từ đơn giản ngắn gọn của thầy Thích Nhất Hạnh nhưng đôi khi chúng ta phải trả giá thật đắt mới nhận ra. Cả hai phim của Trấn Thành đều cho khán giả thấy được điều đó.
Cả hai phim đều phơi bày ra một thực trạng của rất nhiều gia đình Việt Nam hiện tại, đặc biệt là tầng lớp thị dân: bố mẹ áp đặt con cái, áp đặt không được thì chửi, "tao đẻ mày ra", "trứng mà đòi khôn hơn vịt", "thương cho roi cho vọt", "cá không ăn muối cá ươn"...
Vợ chồng thì quen hơi bén mùi xong là mất hết "tương kính như tân", "tao", "mày" búa xua, lỗi lầm nhất định thuộc về kẻ khác... Muốn nhìn một gia đình hạnh phúc hay bất hạnh cứ nhìn vào mâm cơm của họ. Bố già có cảnh bữa tiệc đại gia đình tổ chức ngay giữa con hẻm lao động, kết quả thằng em mất dạy phang luôn cái chai bia vào đầu ông anh chảy máu. Nhà bà Nữ có cảnh bữa ăn 5 người trôi qua trong câm lặng nặng nề sau những màn cãi vã ầm ĩ và ai cũng nghĩ những kẻ khác mới là người có lỗi. Thế cho nên đạo diễn mới tung ra một cái triết lý bình dân bắt đúng "thóp" của hầu hết chúng ta khi ở trong một mối quan hệ đổ vỡ: "ai cũng có lỗi nhưng ai cũng nghĩ mình là nạn nhân".
Một thế mạnh nữa của Trấn Thành qua hai bộ phim này là khả năng xây dựng tâm lý nhân vật. Hầu hết nhân vật trong hai bộ phim này đều đầy khiếm khuyết, đều mắc sai lầm, đều ích kỷ và đều rất ồn ào. Và cách đạo diễn "bắt" họ phải trải qua những bài học cuộc sống với những cái giá khá đắt là cách để bọn họ thức tỉnh và trưởng thành. Ông Ba Sang và bà Nữ là đại diện cho một thế hệ phụ huynh kiểu "tao luôn đúng". Thằng Quắm và con Nhi lại là những hình mẫu của bọn trẻ ích kỷ, tự tin thái quá, đến khi bị đời tát cho mấy cái lật mặt mới tỉnh ngộ rồi mới rút ra bài học kiểu "trường học và trường đời".
Ngoài hai cặp bố con, mẹ con đầy "toxic", cả hai phim đều xây dựng những nhân vật phụ rất đời, rất "chợ", từ má Ngọc Giàu đóng hai vai trong hai phim quá duyên, đến cô vợ "mỏ hỗn" (Lan Phương và Khả Như), từ thằng Quý (Phát La) mất dạy kiểu đứa con "cừu đen" trong gia đình đến thằng Nhuận (Trấn Thành) ở rể kiểu "chó chui gầm chạn"...
Mỗi nhân vật được tung ra đều có câu chuyện để kể, đều ngấm ngầm gửi gắm một thông điệp nhân sinh nào đó. Thế nên khi thằng Quý, cái thằng hư hỏng đốn mạt tưởng vứt đi rồi lại chấp nhận hiến thận cứu ông anh, ta chợt thấy xúc động vì sự thức tỉnh của nó. Hay khi thằng Nhuận khi bị phát hiện ngoại tình và bị cả nhà vợ chửi rủa, hắn thừa nhận hết lỗi lầm của mình nhưng nhất định ra đi để sống cho tử tế với tư cách một thằng đàn ông có tự trọng, ta cũng thấy ở gã đàn ông hơi "hèn" này cũng có một sự thức tỉnh từ bên trong...
Xem hai phim này, tôi đồ rằng dù thích hay ghét, khán giả cũng khó lòng quên được nhân vật, ngay cả những nhân vật phụ. Tôi cho đó cũng là một biệt tài của đạo diễn.
Thành công của hai bộ phim này, với tôi, đơn giản là chúng chạm vào được một chủ đề lớn, gần gũi, phổ quát, đậm đặc chất thị dân và đưa ra những triết lý bình dân có tính chữa lành của người Việt Nam đương đại.
Vậy thì điện ảnh Việt học được gì từ hai bài học thành công này để chúng không phải là một hiện tượng nhất thời? Kinh phí của chúng không quá lớn theo kiểu phim "bom tấn" để khó kêu gọi đầu tư trong bối cảnh hiện nay, đề tài cũng không quá thách đố mà có thể tìm thấy ngay trong cuộc sống hiện tại.
Phải chăng, hai bộ phim này đã "đào" trúng mạch nước ngầm, đã tìm ra được "ADN" của phim Việt để có thể chinh phục khán giả?
Tác giả: Nhà báo, nhà phê bình điện ảnh Lê Hồng Lâm tốt nghiệp khoa Báo chí, Đại học Quốc gia Hà Nội; anh từng làm phóng viên, biên tập viên của tuần báo Sinh viên Việt Nam và thư ký tòa soạn tạp chí Thể thao Văn hóa; Đàn ông.
Chuyên mục TÂM ĐIỂM mong nhận được ý kiến của bạn đọc về nội dung bài viết. Hãy vào phần Bình luận và chia sẻ suy nghĩ của mình. Xin cảm ơn!