Thách thức lớn cho an ninh phòng tránh thai
(Dân trí) - Cả nước hiện chỉ có 1 nhà máy sản xuất được thuốc viên tránh thai và 3 nhà máy sản xuất bao cao su. Điều này có nghĩa an ninh phòng tránh thai của ta luôn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế trong khi đó lại chưa có cam kết viện trợ cho an ninh phòng tránh thai sau năm 2008.
Nhu cầu sử dụng đa dạng và tăng vọt
Theo GS.TS Lê Bách Quang, Giám đốc Học viện Quân Y- Bộ Quốc Phòng: Vấn đề xã hội hoá trong cung ứng phương tiện tránh thai (PTTT) được tăng cường góp phần nâng cao sự chấp nhận thanh toán của người sử dụng và mở rộng thị trường PTTT ở Việt Nam.
Năm 2005, trên thị trường xuất hiện khoảng hơn 100 chủng loại BCS với gần 80 triệu bao được bán ra, trong đó, 12 triệu chiếc được bán trên thị trường tự do (50% trong số này có nguồn gốc từ Trung Quốc). Tuy nhiên, do nhãn hiệu BCS OK đã triển khai tiếp thị xã hội được 14 năm nên hiện nay vẫn là nhãn hiệu được ưa dùng nhất, chiếm 74,6% thị phần tiếp thị xã hội (TTXH – bán tại các TT KHHGĐ); Super Trust chiếm 9,2% thị phần. Hai nhãn hiệu Yes và Hello do các dự án trong nước chỉ chiếm 16,3% thị phần.
Về thuốc tránh thai, ước tính trên thị trường có khoảng khoảng hơn 20 loại thuốc tránh thai, 8 triệu vỉ được bán trên thị trường trong đó có khoảng 5 triệu vỉ được bán trên thị trường tự do. Hai nhãn hiệu thuốc viên tránh thai là Choice và Newchoice cũng chiếm vị trí hàng đầu trên thị trường với gần 3,2 triệu vỉ chiếm tỷ lệ 39,4%. Có một thực tế là hầu hết các thuốc tránh thai bán trên thị trường tự do đều đắt hơn TTXH gấp 8- 32 lần, cụ thể như: Mercilon 65.000 đ, Marvelon 45.000đ, Rigevidon 17.500đ…
Thông qua phỏng vấn khách hàng mua PTT: 82% Khách trả lời đồng ý sẽ mua thuốc viên Newchoice cao hơn với giá quy định 2000đ. Mức giá được đa số người chấp nhận là 2.500- 2.800đ, tương đương với giá mua thuốc tránh thai của nhà sản xuất là 2.700- 2.800đ/vỉ.
Giá BCS và hình thức trình bày cũng khá đa dạng: Romatic 7.000đ/chiếc, Vivas 6.000đ/chiếc, Sure 2.000đ/chiếc. Điều đáng lưu ý là khách hàng mua thực tế các sản phẩm TTXH với giá 500đ/chiếc, trong khi quy định giá bán lẻ là 150- 200đ/chiếc còn giá của nhà sản xuất là khoảng trên dưới 400đ/chiếc.
Hiện nay, ở nước ta chỉ có một nhà máy sản xuất được thuốc viên tránh thai và 3 nhà máy sản xuất BCS. Tuy nhiên, các nhà máy này cũng gặp nhiều khó khăn do nguồn nguyên liệu không chủ động và phụ thuộc vào công nghệ.
Không đủ ngân sách đầu tư
Ông Phạm Bá Nhất - Vụ trưởng Vụ Dân số cho biết: Dân số Việt Nam đứng thứ 13 trên thế giới và sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới do mức sinh cao trong quá khứ và tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại hàng năm tăng.
Trong 10 năm qua (1995- 2005), ngân sách đầu tư cho anh ninh phòng tránh thai (AN PTTT) đã lên tới 960 tỷ đồng (ngân sách Chính phủ chỉ chiếm 10 - 16%) và sẽ tiếp tục tăng cao trong 10 năm tới. Tỷ trọng BCS phân phối TTXH đạt từ 57% năm 2005, 80% năm 2010 và lên tới 100% năm 2015 trong chương trình DS-KHHGĐ.
Theo Báo cáo đánh giá về an ninh hành hoá phương tiện tránh thai của Học viện Quân Y- Bộ Quốc Phòng; có 2 loại phương tiện tránh thai tăng mạnh nhất là BCS và thuốc viên tránh thai. Trong đó, BCS phân phối giai đoạn 1996- 2000 là 72,6 triệu chiếc/ năm tăng lên 99,3 triệu/ năm giai đoạn 2001- 2010; thuốc viên tăng tương ứng từ 8 triệu/năm lên 11,7 triệu năm.
Nguyên nhân của sự tăng vọt này là do đối tượng có nhu cầu sử dụng biện pháp tránh thai ngày càng lớn, đặc biệt là khu vực nông thôn (chiếm 75% dân số cả nước). Thêm vào đó, nhu cầu chưa được đáp ứng vẫn còn ở mức 5- 10%.
Tuy nhiên, việc hoạch định kế hoạch dài hạn còn nhiều hạn chế, khó khăn do chưa có chiến lược hoàn thiện về AN PTT. Bên cạnh đó, dù cơ chế phối hợp giữa các cơ quan Chính phủ đã được đẩy mạnh nhưng vẫn chưa xây dựng được các cơ chế phối hợp đinh kỳ giữa các cơ quan Chính phủ và nhà tài trợ. Có một thực tế đáng lo ngại là hiện nay chúng ta vẫn chưa có được cam kết viện trợ cho an ninh PTT sau năm 2008 ( 2006- 2008 viện trợ của KfW – Ngân hàng tái thiết Đức) Theo dự báo AN PTT giai đoạn 2007- 2015, tổng ngân sách còn thiếu khoảng 972 tỷ đồng (tương đương 46,85 triệu euro).
Có thể thấy, trong những năm sắp tới, việc tiếp tục nỗ lực thực hiện giảm sinh và đẩy mạnh xã hội hoá đòi hỏi vai trò của AN PTT đặt nên tầm cao mới.
Thanh Trầm