Hơn 21.500 phụ nữ Việt mắc ung thư vú năm 2020

Theo báo cáo ghi nhận ung thư toàn cầu Globocan 2020, tại Việt Nam, trong số ung thư ở nữ, số người mới mắc ung thư vú đứng hàng thứ nhất, với 21.555 người.

Bộ Y tế và Tổng hội Y học Việt Nam đã ký kết bản ghi nhớ thực hiện đề án "Tăng cường tiếp cận các liệu pháp điều trị tiên tiến cho người bệnh ung thư vú nguy cơ cao giai đoạn 2020 - 2025".

Mục tiêu của đề án nhằm góp phần gia tăng tỷ lệ chẩn đoán ở giai đoạn sớm cho người bệnh ung thư vú và tăng tỷ lệ người bệnh ung thư vú nguy cơ cao được điều trị với các liệu pháp tiên tiến hằng năm.

Theo thứ trưởng Bộ Y tế Trần Văn Thuấn, ung thư vú là bệnh ung thư hàng đầu ở phụ nữ cả ở các nước phát triển và đang phát triển. Tỷ lệ mắc bệnh ung thư vú đang gia tăng ở các nước đang phát triển do tuổi thọ tăng, tốc độ đô thị hóa tăng và thay đổi lối sống.

Theo báo cáo ghi nhận ung thư toàn cầu Globocan 2020, tại Việt Nam, trong số ung thư ở nữ, số người mới mắc ung thư vú đứng hàng thứ nhất, với 21.555 người, chiếm 25.8%, tính theo cả hai giới đứng hàng thứ ba (sau ung thư gan và ung thư phổi).

Hơn 21.500 phụ nữ Việt mắc ung thư vú năm 2020 - 1

GS.TS Trần Văn Thuấn - Thứ trưởng Bộ Y tế cùng PGS. TS Nguyễn Thị Xuyên, Chủ tịch Tổng Hội Y học Việt Nam ký kết bản ghi nhớ thực hiện đề án "Tăng cường tiếp cận các liệu pháp điều trị tiên tiến cho người bệnh ung thư vú nguy cơ cao giai đoạn 2020 - 2025"

Tỷ lệ mới mắc chuẩn theo tuổi của ung thư vú ở nữ là 34.2 trên 100.000 dân. Ở cả hai giới, số tử vong do ung thư vú đứng hàng thứ tư (với 9.345 trường hợp) sau ung thư gan, ung thư phổi và ung thư dạ dày. Tỷ lệ tử vong chuẩn theo tuổi do ung thư vú là 13.8 trên 100.000 dân.

Theo các chuyên gia, mặc dù có thể đạt được mục tiêu giảm một số nguy cơ gây ung thư vú thông qua dự phòng, nhưng chiến lược này không thể loại bỏ phần lớn ung thư vú đang phát triển ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình, nơi ung thư vú được chẩn đoán ở giai đoạn rất muộn.

Do đó, phát hiện sớm để cải thiện kết quả và sự sống còn của ung thư vú vẫn là nền tảng của việc kiểm soát ung thư vú, đồng thời tăng tiếp cận các liệu pháp điều trị phù hợp, tiên tiến là một giải pháp quan trọng trong kiểm soát ung thư vú.

Tại Việt Nam, cách đây 5 đến 10 năm thì tỷ lệ người bệnh ung thư tới khám, điều trị ở giai đoạn muộn là hơn 70%. Thời gian qua, công tác truyền thông được đẩy mạnh, đặc biệt là trong Chương trình quốc gia về phòng, chống bệnh không lây nhiễm, nhờ đó, tỷ lệ người mắc bệnh ung thư đến khám và điều trị bệnh ở giai đoạn sớm tăng dần.

"Thực hiện đề án "Tăng cường tiếp cận các liệu pháp điều trị tiên tiến cho người bệnh ung thư vú nguy cơ cao giai đoạn 2020 - 2025" sẽ góp phần vào mục tiêu chung của Chiến lược quốc gia phòng, chống bệnh không truyền nhiễm trong đó có ung thư giai đoạn 2015 - 2025. Khi được triển khai toàn quốc và với sự hợp tác của các cấp, ban ngành, cơ quan y tế kỳ vọng sẽ mang lại những thay đổi tích cực, bền vững, góp phần nâng cao khả năng ứng phó với ung thư của Việt Nam"- Thứ trưởng Trần Văn Thuấn chia sẻ.

Để đạt được mục tiêu đó, Bộ Y tế và Tổng hội Y học Việt Nam hợp tác trên các lĩnh vực: Tăng cường sàng lọc, phát hiện sớm ung thư vú thông qua triển khai nâng cao nhận thức cộng đồng, khám tầm soát về ung thư vú, xây dựng chính sách bảo hiểm y tế, hướng dẫn chuyên môn về khám sàng lọc ung thư vú.

Củng cố năng lực hệ thống khám, chữa bệnh về chẩn đoán, điều trị ung thư vú. Phát triển hệ thống dữ liệu RWD real-world data về ung thư vú và tối ưu hóa sử dụng dữ liệu sẵn có. Triển khai các nghiên cứu tổng quan về chính sách chi trả, chi phí - hiệu quả, khảo sát thực trạng tầm soát ung thư vú, khảo sát sử dụng thuốc trong điều trị ung thư vú có HER2 dương tính.

Theo đánh giá, đây là đề án chuyên biệt về ung thư vú, lần đầu tiên được triển khai ở quy mô toàn quốc và có sự chung tay, hợp tác chặt chẽ giữa các bên liên quan từ các cấp chính phủ (Bộ Y tế, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam) đến cơ quan chuyên môn, các bệnh viện: K, Bạch Mai, Ung bướu TP Hồ Chí Minh, Ung bướu Hà Nội, Chợ Rẫy và các đơn vị tài trợ.

Mặc dù có thể đạt được mục tiêu giảm một số nguy cơ gây ung thư vú thông qua dự phòng, nhưng chiến lược này không thể loại bỏ phần lớn ung thư vú đang phát triển ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình, nơi ung thư vú được chẩn đoán ở giai đoạn rất muộn. Do đó, phát hiện sớm để cải thiện kết quả, đồng thời tăng tiếp cận các liệu pháp điều trị phù hợp, tiên tiến là một giải pháp quan trọng trong kiểm soát ung thư vú.

PGS. TS Nguyễn Thị Xuyên, Chủ tịch Tổng Hội Y học Việt Nam cho biết: Đề án là một dự án hết sức có ý nghĩa, nhân văn, mang lại lợi ích thiết thực cho người bệnh. Đề án này giúp nâng cao năng lực cho các bác sĩ về phát hiện sớm, điều trị ung thư vú, qua đó người bệnh sẽ được tiếp cận và sử dụng dịch vụ có chất lượng.