Bệnh bạch hầu: Tăng nguy cơ tử vong vì tắc đường thở, viêm cơ tim

Hồng Hải

(Dân trí) - Vi khuẩn gây bệnh bạch hầu khu trú ở đường hô hấp trên tạo giả mạc dai dính, khó bóc tách, sinh ra ngoại độc tố gây nhiễm độc toàn thân, gây biến chứng tắc đường thở và viêm cơ tim.

Gây nhiễm độc toàn thân, tắc đường thở, viêm cơ tim

Theo PGS.TS Đỗ Duy Cường, Giám đốc Trung tâm Bệnh nhiệt đới, Bệnh viện Bạch Mai, trường hợp nữ bệnh nhân tử vong ở Nghệ An tử vong vì bệnh bạch hầu, cách ly hàng trăm F1 cho thấy tính chất nguy hiểm của dịch bệnh này.

Chuyên gia này cho biết, bạch hầu là một bệnh truyền nhiễm cấp tính nguy hiểm, lây theo đường hô hấp và có khả năng gây dịch, do trực khuẩn Corynebacterium diphtheriae gây nên. 

Như trường hợp trên, từ ca bệnh tử vong ở Nghệ An, người tiếp xúc với ca bệnh này sau đó về Bắc Giang đã mắc bệnh.

Tại Nghệ An, tính cho đến ngày 8/7/2024 đã có 119 trường hợp tiếp xúc với nữ bệnh nhân tử vong do bạch hầu và các trường hợp này đều phải theo dõi, cách ly.

Bệnh thường gặp ở trẻ em và ở đối tượng chưa có miễn dịch với bệnh bạch hầu do chưa được tiêm vaccine đầy đủ.

"Vi khuẩn khu trú ở đường hô hấp trên tạo giả mạc dai dính, khó bóc tách và sinh ra ngoại độc tố gây nhiễm độc toàn thân, nguy cơ tử vong do biến chứng tắc đường thở và viêm cơ tim", PGS Cường cho biết.

Đánh giá về nguy cơ lây lan dịch bệnh bạch hầu trong cộng đồng từ các ca bệnh này, PGS.TS Cường cho rằng nguy cơ lây lan ra cộng đồng là không lớn. Các ca bệnh hiện nay phát hiện mang tính chất lẻ tẻ do hầu hết các đối tượng trẻ em hiện nay đều đã được tiêm phòng vaccine khi còn nhỏ.

Chỉ có những người chưa được tiêm phòng vaccine hoặc tiêm chưa đầy đủ theo lịch tiêm chủng thì mới có khả năng mắc bệnh.

Dấu hiệu nhận biết bệnh bạch hầu

PGS.TS Cường cho biết, bệnh bạch hầu thường ủ bệnh 2-5 ngày. Sau thời gian ủ bệnh, người bệnh thường có triệu chứng sốt nhẹ, đau họng, khó chịu, mệt mỏi, ăn kém, da xanh, chảy nước mũi, họng hơi đỏ.

Đặc biệt khám họng thấy amidan có giả mạc trắng, lúc đầu nhỏ sau lan dần ra bao trùm họng và lưỡi gà, màu trắng, dai, bóc ra dễ chảy máu, hạch cổ sưng to làm cho cổ bạnh ra (bạch hầu họng).

Bệnh bạch hầu: Tăng nguy cơ tử vong vì tắc đường thở, viêm cơ tim - 1

Dấu hiệu đặc trưng của bệnh bạch hầu (Ảnh: Getty).

Sau có thể dẫn đến các triệu chứng nặng như viêm cơ tim, viêm thanh quản (gây khàn tiếng, ho ông ổng, thở rít), suy hô hấp, ngạt thở, suy thận, tổn thương thần kinh. Nếu không được điều trị bằng thuốc đặc hiệu thì có thể dẫn tới tử vong.

Đến nay, bạch hầu được điều trị đặc hiệu bằng kháng sinh và huyết thanh kháng độc tố bạch hầu (Anti-Diphteria Serum-ADS). Các kháng sinh thông thường như Penicillin G, Erythromycin hoặc Azithromycin có thể diệt được vi khuẩn bạch hầu, thời gian điều trị từ 10-14 ngày.

Chuyên gia này cho biết, với căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm này, tiêm vaccine là biện pháp phòng bệnh chủ động và hiệu quả nhất.

Tại Việt Nam, ở những nơi vùng sâu vùng xa, độ bao phủ tiêm chủng thấp sẽ dẫn tới lỗ hổng miễn dịch và do đó bệnh còn lưu hành và khó có thể dập tắt. Trẻ em cần phải tiêm đầy đủ, đúng lịch để có miễn dịch cộng đồng. Các biện pháp phòng bệnh bao gồm:

- Rửa tay đúng quy cách bằng xà phòng hoặc dung dịch sát khuẩn. Nhà ở của người bệnh, dụng cụ trong phòng, đồ dùng, đồ chơi, quần áo của người bệnh phải tẩy uế và sát khuẩn.

- Tiêm vaccine bạch hầu: Trong chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia, dùng vaccine đa giá: bạch hầu - ho gà - uốn ván cho trẻ. Bắt đầu tiêm từ 2-3 tháng tuổi, tiêm 2 lần, mỗi lần 1ml cách nhau 1 tháng. Một năm sau nhắc lại mỗi một năm 1 lần cho đến 5 tuổi.

- Người lớn chưa được tiêm hoặc không có miễn dịch cần được tiêm nhắc lại 1 mũi.

- Với người tiếp xúc: Xét nghiệm vi khuẩn và theo dõi trong vòng 7 ngày. Ngoài ra cần uống thuốc dự phòng bằng Erythromycin hoặc Azithromycin trong 7 ngày.