Xét xử đại án BIDV: Đề nghị mức án cao nhất đến 19 năm tù
(Dân trí) - Các bị cáo trong vụ đại án BIDV bị Viện Kiểm sát đề nghị Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt mức án thấp nhất từ 3 năm tù đến cao nhất là 19 năm tù.
Sáng 28/10, phiên xử sơ thẩm vụ đại án xảy ra tại Ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV), Công ty CP chăn nuôi Bình Hà và Công ty TNHH thương mại và du lịch Trung Dũng kết thúc phần xét hỏi, bước vào phần tranh luận. Mở đầu, đại diện Viện KSND TP Hà Nội đưa ra quan điểm giải quyết vụ án cũng như đề nghị mức án cụ thể dành cho từng bị cáo.
Tội “Vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng”:
Trần Lục Lang, cựu Phó Tổng Giám đốc BIDV phụ trách Quản lý rủi ro, thành viên Phân Ban quản lý rủi ro tín dụng, đầu tư bị đề nghị 6 - 7 năm tù.
Đoàn Ánh Sáng, cựu Phó Tổng Giám đốc BIDV phụ trách Khách hàng doanh nghiệp, thành viên Phân Ban quản lý rủi ro tín dụng, đầu tư: 6 - 7 năm tù.
Kiều Đình Hòa, cựu Giám đốc BIDV chi nhánh Hà Tĩnh: 4 - 5 năm tù.
Lê Thị Vân Anh, cựu Trưởng phòng Khách hàng doanh nghiệp BIDV chi nhánh Hà Tĩnh: 3-4 năm tù.
Ngô Duy Chính, cựu Giám đốc BIDV chi nhánh Hà Thành: 7 - 8 năm tù.
Nguyễn Xuân Giáp, cựu Phó Giám đốc BIDV chi nhánh Hà Thành: 5 - 6 năm tù.
Phạm Hồng Quang, cựu Trưởng phòng Khách hàng doanh nghiệp I - BIDV chi nhánh Hà Thành: 4 - 5 năm tù.
Đặng Thanh Nam, cựu cán bộ quản lý khách hàng - BIDV chi nhánh Hà Thành: 3 - 4 năm tù.
Tội “Lạm dụng tín nhiệm, chiếm đoạt tài sản”:
Đoàn Hồng Dũng, cựu Giám đốc Công ty Trung Dũng: 18 - 19 năm tù.
Trần Anh Quang, cựu Tổng Giám đốc Công ty Bình Hà: 13 - 14 năm tù.
Đinh Văn Dũng, cựu Tổng Giám đốc Công ty Bình Hà: 12 - 13 năm tù.
Nguyễn Thị Thanh Sơn, thành viên góp vốn Công ty Trung Dũng, cựu Giám đốc Công ty Hà Nam: 5 - 6 năm tù.
“Bàn tay” ông Trần Bắc Hà trong dự án nuôi bò
Theo đại diện Viện Kiểm sát, căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như kết quả thẩm tra công khai tại tòa có đủ cơ sở xác định, trong khoảng thời gian từ năm 2011 - 2016, lợi dụng chức trách được giao, Trần Bắc Hà - Chủ tịch HĐQT BIDV - đã chỉ đạo cấp dưới tại BIDV và BIDV chi nhánh Hà Tĩnh, chi nhánh Hà Thành cho Cty Bình Hà (công ty “sân sau” của Trần Bắc Hà) và Cty Trung Dũng vay trái quy định, gây thất thoát của BIDV hơn 1.600 tỷ đồng.
Đối với Cty Bình Hà, đây là công ty mới thành lập, chưa có bất cứ hoạt động kinh tế phát sinh, thuộc doanh nghiệp chưa đủ điều kiện xếp hạng tín dụng theo tiêu chuẩn của BIDV; vốn tự có và tài sản bảo đảm không đủ điều kiện để cấp tín dụng theo chính sách tín dụng của BIDV; hồ sơ pháp lý của dự án chưa đầy đủ; chưa đánh giá hết phương án kinh doanh và phương án trả nợ khi dự án không hiệu quả.
Mặc dù đã đánh giá và thẩm định dự án có 8 yếu tố rủi ro có thể ảnh hưởng đến hiệu quả của dự án, nhưng theo sự chỉ đạo của Trần Bắc Hà, BIDV và BIDV chi nhánh Hà Tĩnh đã thẩm định, đề xuất và phê duyệt cho Cty Bình Hà vay vốn với các điều kiện ưu đãi về vốn tự có và tài sản đảm bảo đảm.
Quá trình giải ngân, BIDV không kiểm soát dòng tiền có được sau kinh doanh, để các cổ đông Cty Bình Hà sử dụng vốn vay không đúng mục đích, thông qua các nhà thầu chiếm đoạt và chiếm dụng tiền giải ngân của BIDV và tiền bán bò... Tổng dư nợ của Cty Bình Hà tại BIDV không có khả năng thu hồi là gần 800 tỷ đồng.
Ngoài ra, các bị cáo còn có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tiền bán bò thịt. Theo quy định, tiền bán bò thu về từ các Công ty môi giới và các lò mổ phải chuyển về tài khoản của Cty Bình Hà tại BIDV chi nhánh Hà Tĩnh để ngân hàng kiểm soát và đối trừ công nợ.
Do không có tiền góp vốn, theo sự chỉ đạo của Trần Duy Tùng (con trai ông Trần Bắc Hà), các bị cáo Đinh Văn Dũng, Trần Anh Quang và Thái Thành Vinh đã chiếm đoạt tiền bán bò để góp vốn cá nhân, chứng minh vốn đối ứng với BIDV, để BIDV tiếp tục giải ngân vốn vay và sử dụng vào mục đích cá nhân khác. Tổng số tiền các bị can chiếm đoạt của BIDV là gần 150 tỷ đồng.
Rủi ro lớn vẫn cấp hạn mức 700 tỷ đồng
Đối với Cty Trung Dũng, thẩm định, đánh giá tình hình tài chính của công ty này gặp khó khăn, chỉ tiêu tài chính phản ánh khả năng thanh toán chưa đảm bảo, tỷ lệ tài sản đảm bảo trên giá trị hạn mức tín dụng đề nghị được cấp chưa đáp ứng Chính sách tín dụng của BIDV, dư nợ tại các tổ chức tín dụng lớn, có rủi ro. Tuy nhiên, tháng 8/2011, các bị cáo Ngô Duy Chính, Nguyễn Xuân Giáp, Trần Hồng Quang, Đặng Thanh Nam vẫn thực hiện việc cấp hạn mức tín dụng ngắn hạn 700 tỷ đồng cho Cty Trung Dũng.
Quá trình cho vay theo hạn mức, do áp lực từ sự chỉ đạo của ông Trần Bắc Hà, các bị cáo trên đã quyết định giải ngân cho Cty Trung Dũng vay 26 khoản còn dư nợ, trong đó có 20 khoản giải ngân không đáp ứng đúng tỷ lệ tài sản đảm bảo.
Đối với tất cả 26 khoản vay trên, các bị cáo Ngô Duy Chính, Nguyễn Xuân Giáp, Trần Hồng Quang, Đặng Thanh Nam đã không kiểm soát được tiền bán hàng của doanh nghiệp để thu nợ, không kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay của Cty Trung Dũng đối với các khoản giải ngân để mua phôi thép dẫn đến còn dư nợ hơn 600 tỷ đồng, không có khả năng thanh toán.
Tại thời điểm tháng 11/2011, Cty Trung Dũng đã gặp nhiều khó khăn về tài chính, dư nợ gần hết hạn mức được cấp, các chỉ tiêu tài chính càng ngày càng xấu nhưng các bị cáo tại BIDV chi nhánh Hà Thành vẫn đề xuất để BIDV phê duyệt phát hành L/C (thư tín dụng) theo món cho công ty này để nhập khẩu phôi thép, thép phế.
Sau khi phát hành L/C, Ngô Duy Chính, Nguyễn Xuân Giáp, Phạm Hồng Quang, Đặng Thanh Nam không thực hiện đúng các điều kiện tín dụng được BIDV phê duyệt, giao cho Cty Trung Dũng tự quản lý hàng hóa mà không kiểm tra, giám sát để doanh nghiệp tự ý bán toàn bộ lô phôi thép, thép phế là tài sản đảm bảo cho khoản phát hành L/C.
Đến hạn thanh toán L/C, BIDV chi nhánh Hà Thành phải đã phát vay bắt buộc để Cty Trung Dũng thanh toán tiền nhập khẩu phôi thép và thép phế cho đối tác nước. BIDV đã xử lý tài sản đảm bảo để thu nợ, đến nay còn dư nợ hơn 260 tỷ đồng không có khả năng thanh toán.
Đối với hành vi lạm dụng chiếm đoạt tài sản của Đoàn Hồng Dũng và đồng phạm, VKS thấy có đủ căn cứ xác định, từ tháng 2 đến tháng 3/2012, lợi dụng sự tin tưởng của BIDV giao cho Cty Trung Dũng tự quản lý lô hàng nhập khẩu là tài sản đảm bảo cho khoản phát hành L/C, Đoàn Hồng Dũng đã thống nhất với Nguyễn Thị Thanh Sơn dùng thủ đoạn gian dối, sử dụng pháp nhân của Cty Hà Nam, Công ty Đầu tư Trung Dũng để ký hợp đồng mua thép phế và phôi thép của Cty Trung Dũng. Sau đó, các đối tượng bán cho Cty TISCO nhằm tránh sự kiểm soát dòng tiền của BIDV đối với Công ty Trung Dũng.
Tiền thu được từ việc bán hàng, Đoàn Hồng Dũng, Nguyễn Thị Thanh Sơn không chuyển về tài khoản của Cty Trung Dũng tại BIDV để thanh toán cho đối tác nước ngoài khi đến hạn như đã cam kết với BIDV mà dùng để trả nợ cho Cty Hà Nam, Cty Trung Dũng và sử dụng vào các mục đích khác. Tổng số tiền các bị can đã chiếm đoạt của BIDV là hơn 260 tỷ đồng.