"Bộ sậu" Gang thép Thái Nguyên "thả gà ra đuổi" như thế nào?
(Dân trí) - Tổng thầu Trung Quốc chưa làm gì, TISCO đã tạm ứng hơn 35 triệu USD. Trước những đòi hỏi vô căn cứ của tổng thầu, lãnh đạo TISCO lại "nhún nhường", ký hợp đồng thầu phụ, nhận mọi bất lợi về mình.
TAND TP Hà Nội đang xét xử 19 bị cáo nguyên là lãnh đạo Công ty CP Gang thép Thái Nguyên (TISCO) và Tổng Công ty Thép Việt Nam (VNS).
Theo cáo trạng được công bố tại tòa ngày 12/4, dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 Công ty Gang thép Thái Nguyên do TISCO làm chủ đầu tư, có tổng mức đầu tư hơn 3.800 tỷ đồng. Năm 2007, TISCO ký hợp đồng EPC số 01# (Hợp đồng EPC) với Tập đoàn Khoa học Công nghệ và Thương mại luyện kim Trung Quốc (MCC), giá trị hợp đồng là hơn 160 triệu USD (hơn 3.500 tỷ đồng).
Đây là giá trọn gói, không thay đổi trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng. Trong đó, chi phí thiết kế và dịch vụ kỹ thuật (phần E) là hơn 3,1 triệu USD; chi phí thiết bị (phần P) là hơn 114,8 triệu USD và chi phí xây lắp (phần C) là hơn 42,9 triệu USD.
Trước khi khởi công gần 1 tháng, MCC được TISCO tạm ứng hơn 35,6 triệu USD. Sau hơn 11 tháng kể từ khi Hợp đồng EPC có hiệu lực, MCC chưa lựa chọn và ký được hợp đồng với nhà thầu phụ; chưa hoàn thành thiết kế chi tiết các hạng mục, không đặt hàng chế tạo máy móc thiết bị, không triển khai thi công các hạng mục của gói thầu.
Trái lại, nhà thầu này rút hết người về nước và nhiều lần có văn bản đề nghị kéo dài thời gian thực hiện hợp đồng, tăng giá hợp đồng thêm hơn 138 triệu USD (bao gồm chi phí xây lắp, thiết bị, thiết kế, dịch vụ kỹ thuật và biến động tỷ giá) với lý do giá cả thị trường thế giới biến động tăng giá bất thường. Đề nghị này bị Viện Kiểm sát xác định là không có căn cứ, không đúng nguyên tắc hợp đồng theo hình thức trọn gói đã ký.
Tuy nhiên, lãnh đạo, cán bộ có trách nhiệm thuộc TISCO và VNS đã không thực hiện đúng quy định của pháp luật và của Hợp đồng EPC để xem xét dừng, chấm dứt hợp đồng, thu hồi tiền tạm ứng, áp dụng điều khoản phạt hợp đồng, báo cáo người có thẩm quyền xem xét để hủy đấu thầu, tổ chức đấu thầu lại; mà đã thực hiện các hành vi phạm pháp luật về đầu tư, vi phạm Hợp đồng EPC và thiếu trách nhiệm trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, dẫn đến hậu quả làm thất thoát, lãng phí, thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng tài sản Nhà nước.
Thả gà ra đuổi!
Lãnh đạo TISCO và VNS biết rõ theo quy định của pháp luật và của Hợp đồng EPC là hợp đồng trọn gói nhưng đã bàn bạc, thống nhất báo cáo Bộ Công Thương và Chính phủ chấp thuận chủ trương chọn Tổng Công ty xây dựng Công nghiệp Việt Nam (VINAINCON) làm nhà thầu phụ thực hiện phần C; cho phép chủ đầu tư được điều chỉnh chi phí thực hiện phần C của Hợp đồng EPC theo các quy định về điều chỉnh giá và hợp đồng xây dựng; nhà thầu phụ Việt Nam được thực hiện phần C dưới hình thức hợp đồng theo đơn giá...
Sau khi ký Phụ lục điều chỉnh lần thứ tư Hợp đồng EPC, ngày 30/9/2009, TISCO cùng VINAINCON và MCC đã ký Hợp đồng thầu phụ có nội dung: "Hình thức hợp đồng thực hiện phần C theo đơn giá, TISCO chịu trách nhiệm quản lý, kiểm soát và thanh toán toàn bộ khoản tiền của phần C... Nếu VINAINCON vi phạm Hợp đồng thì VINAINCON phải đảm bảo cho MCC miễn chịu trách nhiệm về bất cứ bồi thường tổn thất nào do vi phạm này gây ra; nếu nguyên nhân chậm tiến độ do VINAINCON gây ra thì VINAINCON phải chịu trách nhiệm cho phần C tuân thủ theo Hợp đồng EPC..."
Việc ký kết trên đã tách phần C của Hợp đồng EPC là hợp đồng được thực hiện theo hình thức trọn gói, sang hình thức hợp đồng theo đơn giá đối với phần xây lắp (phần C) của Hợp đồng, phá vỡ nguyên tắc thực hiện hợp đồng theo hình thức trọn gói của Hợp đồng EPC, dẫn đến phải điều chỉnh cơ cấu tổng mức đầu tư, làm tăng tổng mức đầu tư.
Hành vi trên của các cá nhân có trách nhiệm tại TISCO và VNS bị Viện Kiểm sát đánh giá đã gây bất lợi cho TISCO khi nhà thầu phụ không hoàn thành phần C thì không ràng buộc được trách nhiệm của MCC, tạo điều kiện để MCC có lý do chối bỏ trách nhiệm thực hiện Hợp đồng EPC!
Sau khi ký Hợp đồng thầu phụ thực hiện phần C của Hợp đồng EPC, VINAINCON không đủ năng lực (về nhân công, thiết bị, tài chính...) để tiếp tục thực hiện hoàn thành các công việc của phần C theo thời hạn và hợp đồng đã ký nên đã trả lại các phần việc chưa khởi công, thi công cho TISCO. TISCO đã phải ký tiếp 13 Hợp đồng thầu phụ với 13 nhà thầu phụ khác để tiếp tục thực hiện Phần C dưới hình thức hợp đồng theo đơn giá điều chỉnh.
Tuy nhiên, đến thời điểm hết hạn hợp đồng (ngày 31/5/2011) vẫn không thể hoàn thành được công việc phần C của Hợp đồng EPC và dự án đã dừng thực hiện. Mặc dù phần C của Hợp đồng EPC dở dang, chưa hoàn thành, nhưng TISCO đã phải thanh toán cho phần C là 877,147 tỷ đồng (vượt quá giá trị theo Hợp đồng EPC: phần C có giá trị hơn 42,9 triệu USD, tương đương với 764,152 tỷ đồng).
Về phần E của Hợp đồng EPC: MCC đã cung cấp đủ cho TISCO 1.398 tập bản vẽ thiết kế, TISCO đã thanh toán 2.918.068,11 USD (92,77%).
Về phần P của Hợp đồng EPC: MCC đã thực hiện nhập khẩu thiết bị và cấp đến công trường khoảng 35.800 tấn thiết bị (trong đó có nhiều loại máy móc thiết bị qua kiểm tra xác định không đúng quy cách chủng loại, sai khác về xuất xứ, tên nhà cung cấp, ký hiệu, thông số kỹ thuật...); còn thiếu 526 tấn, gồm thiết bị điện, điện điều khiển, tự động hỏa và vật liệu chịu lửa (trị giá khoảng 16 triệu USD). TISCO đã thanh toán giá trị phần P là hơn 107,5 triệu USD (93,68%).
Tính đến ngày 31/12/2018, TISCO đã chi cho dự án 4.423 tỷ đồng. TISCO phải trả lãi cho các ngân hàng từ khi Hợp đồng EPC chậm tiến độ (từ ngày 31/5/2011 đến khi khởi tố vụ án) là hơn 830 tỷ đồng.